Bài 8: GIAI ĐOẠN CAO NIÊN
III. TUỔI GIÀ VÀ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI
Bên cạnh tâm lý hướng về cội nguồn, tổ tiên, những người cao tuổi còn có mối quan tâm đặc biệt đối với con cháu - những người sẽ tiếp nối họ trong tương lai. Điều hạnh phúc nhất đối với người già là thấy con cháu mình trưởng thành, tiến bộ, hữu ích cho xã
hội. Họ coi đây vừa là tài sản quí báu nhất mà họ để lại cho gia đình, xã hội, vừa là phần thưởng tạo hóa giành cho họ. Chính vì vậy, nhiều bậc ông bà đã góp phần đắc lực vào việc nuôi dạy con cháu mình trưởng thành và coi đó là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn.
Sức khoẻ và những trạng thái tâm lý của người già không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân họ mà còn phụ thuộc vào môi trường sống của xã hội, vào thái độ cư xử của con cháu, của các thế hệ kế tiếp họ. Sự kính trọng, biết ơn của xã hội, của các thế hệ con cháu là niềm động viên khích lệ rất lớn đối với người già.
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN CAO NIÊN
- Những thay đổi về thể chất và nhận thức: giai đoạn thoái hóa về thể chất, nguy cơ bệnh tật cao, xuất hiện triệu chứng mất trí nhớ và suy giảm khả năng ghi nhớ
- Đặt điểm tâm lý:
Hội chứng về hưu sẽ khiến cho người cao tuổi kiểm điểm lại quá khứ và cảm thấy hài lòng hoặc hối tiếc về những chọn lựa đã qua
Khía cạnh tâm linh: gắn bó với thần linh, dòng tộc
Buồn sầu và mất mát: cảm nhận sự bất lực của bản thân, kinh nghiệm sự ra đi của những người đồng trang lứa và sợ hãi cái chết
- Tuổi già và môi trường xã hội: hướng về cội nguồn, quan tâm đến con cháu
TÓM KẾT
Học thuyết về sự phát triển tâm lý xã hội của Erikson được trình bày sau đây hy vọng sẽ tóm kết lại một số điểm nhân viên công tác xã hội cần quan tâm trong quá trình tác nghiệp. Erikson cho rằng con người phát triển theo một hướng nhất định gồm tám giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn 1- tin tưởng >< không tin tưởng (từ lúc sinh ra đến khi 18 tháng):
Trong giai đoạn này, trẻ học tin tưởng người khác đặc biệt là người chăm sóc chúng. Trẻ sơ sinh học biết rằng chúng có thể cậy dựa vào người chăm sóc để có được thực phẩm, nhà ở, và tình thương và để đáp ứng nhu cầu của mình. Nếu các nhu cầu của trẻ không được đáp ứng, trẻ sẽ không tin tưởng người khác - Giai đoạn 2 - tự quản >< xấu hổ và nghi ngờ (từ 18 tháng đến 3 tuổi): Trẻ
học cách làm một số việc như tự ăn, tự mặc quần áo. Qua việc hoàn tất các công việc, trẻ có được cảm giác tự tin. Nếu sự tự lập của trẻ không được khuyến khích, hoặc nếu trẻ bị phạt vì tự làm việc này việc kia, chúng có thể nảy sinh cảm giác tự nghi ngờ bản thân.
- Giai đoạn 3 - chủ động, sáng kiến >< cảm giác tội lỗi (3 đến 6 tuổi): Trẻ rất linh hoạt và chủ động. Chúng có nhiều sáng kiến, chúng học hỏi, khám phá, và chi phối những sự xung quanh. Trẻ được khuyến khích sáng tạo sẽ phát triển những kỹ năng cho phép chúng theo đuổi những mục tiêu và những điều mình ưa thích trong tương lai. Trẻ không được động viên, khích lệ sẽ thiếu tự tin khi làm điều mình ưa thích và sẽ không có thể làm chủ được đời mình.
- Giai đoạn 4 - năng nổ, hiệu quả >< tự ti mặc cảm (6 đến 12 tuổi): Trẻ cần phải thực hiện nhiều điều hữu ích và có những kinh nghiệm thành công. Trẻ bận bịu với việc vừa chơi vừa học và qua đó trẻ có cơ hội thông thạo những công việc khác nhau. Trẻ nào có thể tìm ra những cách thức làm sao để thành công trong công việc sẽ học được tính cần cù siêng năng. Trẻ nào cứ gặp thất bại sẽ có cảm giác mặc cảm. Điều này ngăn cản cơ hội thành công trong tương lai.
- Giai đoạn 5 - Khẳng định căn tính, bản sắc >< mơ hồ về căn tính (vị thành niên): Vị thành niên khám phá mình là ai và phát triển cảm thức về căn tính, bản sắc của mình. Chúng sẽ thử nghiệm và hòa nhập nhiều vai trò với cảm thức về cái tôi của mình. Trẻ vị thành niên nào gặp khó khăn trong việc hòa nhập các vài trò với căn tính, bản sắc của mình sẽ kinh nghiệm sự mơ hồ về căn tính - Giai đoạn 6 - Thân thiết gần gũi >< cô độc (thanh niên): Thanh niên tìm kiếm
sự thân thiện và gần gũi trong các mối tương quan. Họ học cách cho đi và nhận lại từ một người quan trọng nào đó mà vẫn không đánh mất căn tính của mình.
Nếu họ không thể có được tương quan thân thiết nào, họ sẽ có nguy cơ cô độc trong tuổi tráng niên
- Giai đoạn 7 - năng động >< trì trệ, tự đủ (tráng niên): Người tráng niên đầu tư vào công việc, gia đình, cộng đồng và thế hệ tương lai. Họ bắt đầu nhìn vào đời mình và an sinh hạnh phúc của những người xung quanh. Người nào không thể
làm như thế sẽ tiến lên được và họ chỉ quan tâm đến bản thân mình. Họ trở nên trì trệ và không thể làm gì cho người khác
- Giai đoạn 8 - mãn nguyện >< thất vọng (tuổi già): Người ở tuổi già nhìn lại đợi mình và kiểm kê lại những thành công. Ai thỏa mãn với những gì mình đạt được sẽ có cảm giác hạnh phúc và bình an. Ai không thỏa mãn sẽ có cảm giác thất vọng và tiếc nuối những cơ hội đã qua.