Chương 3 HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
3.3. Những giải pháp nhằm nâng cao nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam
3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án Trong hoạt động của ngành Tòa án nhiệm vụ chí nh trị được chú trọng nhất đó là nhiệm vụ xét xử các vụ án , Thẩm phán là người thực hiện nhiệm vụ này . Để
đảm bảo tính vô tư , khách quan của Thẩm phán khi xét xử pháp luật đã quy định
"Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Do vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong ngành Tòa án phải vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đồng thời bảo đảm không ảnh
hưởng đến tính độc lập của các Thẩm phán để hướng tới việc xét xử nghiêm minh , đúng người đúng tội, đúng pháp luật.
Để nâng cao vị thế của Tòa án , làm cho Tòa án mạnh lên , được người dân, doanh nghiệp tin tưởng nhờ cậy thì cần tă ng cường tính độc lập của Tòa án , khi xét xử Thẩm phán phải hoàn toàn độc lập . Cần tiếp tục đổi mới , hoàn thiện phương thức đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ ngành Tòa án trong thời gian tới theo hướng các tổ chức đảng trong các cơ quan Tòa án địa phương không theo cấp hành chính mà nên cơ cấu theo ngành dọc.
Đồng thời nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc giáo dục ý thức trách nhiệm của người Đảng viên. Đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo đạo đức tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chi bộ Đảng cơ sở thường xuyên nhắc nhở giáo dục đạo đức cách mạng cho Thẩm phán (vì họ đồng thời cũng là đảng viên).
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán:
Vai trò lãnh đạo của Đảng được ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp năm 1992: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 đã nêu yêu cầu phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp năm 2020 đã chỉ rõ: Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức Đảng, đảng viên chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Phân công đồng chí cấp uỷ viên có trình độ năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện kiểm sát và Chánh án TAND các cấp. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy Đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp. Cơ chế phối hợp làm việc giữa các tổ chức Đảng với các cơ quan tư pháp và các ban ngành có liên quan theo hướng cấp uỷ định hướng nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp.
3.3.2. Tăng cường giám sát của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của nhân dân đối với hoạt động xét xử các vụ án hình sự
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác giám sát, động viên nhân dân phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp, qua đó kiến nghị việc khắc phục, sửa chữa. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp.
Trong một nền tư pháp của nhân dân thì nhân dân phải được tiếp cận thông tin về hoạt động xét xử và giám sát hành vi của các Thẩm phán. Các tổ chức chính trị - xã hội có thể đóng vai trò giám sát tư pháp để làm tăng trách nhiệm của các Thẩm phán. Từng bước thực hiện công khai hóa bản án của Tòa án, trừ những bản án hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong mỹ tục. Công bố bản án là việc chuyển tải toàn văn các quyết định và bản án của Tòa án tới công chúng một cách công khai. Mục đích của việc công bố phán quyết của Tòa án là nhằm làm cho công chúng thấy rõ quan điểm của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật để xét xử và giám sát chất lượng của Thẩm phán khi tuyên bản án đó. Việc công bố bản án là hình thức công khai, minh bạch hóa chính sách và pháp luật, việc
làm này được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu để xây dựng nền tư pháp dân chủ, công bằng, đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, trong đó người dân thực sự được làm chủ xã hội thông qua việc được biết, được bàn, được kiểm tra việc thực thi pháp luật của cơ quan tư pháp, của Tòa án. Cũng chính vì thế mà bản thân các Thẩm phán phải nâng cao năng lực chuyên môn để làm sao tuyên bản án được chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng pháp luật được xã hội thừa nhận.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phải có kế hoạch theo dõi chất lượng xét xử của các Hội thẩm nhân dân, đưa tiêu chí chất lượng xét xử tại Tòa án vào tiêu chuẩn bình xét thi đua hàng năm tại nơi công tác của Hội thẩm. Nâng cao vai trò quản lý của Thẩm phán đối với Thư ký trong quá trình tố tụng. Khi có án hủy sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, tại Tòa án có án bị hủy sửa phải tổ chức thảo luận rút kinh nghiệm trong toàn thể cán bộ làm công tác xét xử tại đơn vị. Nếu sai phạm nghiêm trọng phải có hình thức xử lý nghiêm minh.
3.3.3. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ Thứ nhất, về công tác bổ nhiệm Thẩm phán
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó việc khắc phục tình trạng thiếu Thẩm phán cần thực hiện các biện pháp sau: đối với những nơi không có nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán và số lượng Thẩm phán còn thiếu trên 10% trở lên thì cần mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng lựa chọn các Hội thẩm nhân dân, tuy chưa được đào tạo về nghiệp vụ xét xử nhưng có trình độ đại học luật, đã qua một nhiệm kỳ Hội thẩm mà kết quả tham gia công tác xét xử tốt và có đủ các điều kiện khác nhau theo quy định để bổ nhiệm làm Thẩm phán. Tuy nhiên các trường hợp này, sau khi bổ nhiệm cần được tập huấn về kinh nghiệm giải quyết, xét xử các vụ án như đối với Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu. Bên cạnh đó, TANDTC cần trao đổi với Bộ tư pháp để tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ cấp tốc với thời gian đào tạo 6 tháng/ khoá cho các tỉnh phía Nam, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc theo nhu cầu và số lượng Thẩm phán cần bổ nhiệm ở các địa phương này. Đồng thời kéo dài thời gian công tác đối với Thẩm phán đã đến tuổi nghỉ hưu cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ Thẩm phán được bổ nhiệm. Bên cạnh các giải pháp trên, về lâu dài, để giải quyết cơ bản những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện tăng cường số lượng Thẩm phán thì cần phải có cơ chế để ngành Toà án chủ động tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho các Toà án. Trong bối cảnh đời sống kinh tế, xã hội của đất nước vẫn tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày
càng tăng nhanh thì các tranh chấp và tội phạm vẫn có xu hướng gia tăng, nếu ở mức hiện nay là 15% năm thì mỗi năm Toà án các cấp cần phải bổ sung thêm khoảng 1.000 người trong đó có 450 Thẩm phán và 550 thư ký toà án và nhân viên giúp việc khác thì mới đáp ứng được yêu cầu công việc. Có thể Thẩm phán đã thể hiện được vai trò năng lực của mình trong việc giải quyết các vụ án TTHS. Trong quá trình giải quyết xét xử Toà án nói chung và Thẩm phán nói riêng đã đảm bảo cho những người tham gia tổ chức thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Các phán quyết của Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà và trên cơ sở xem xét một cách toàn diện khách quan các chứng cứ của vụ án nên đã đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chất lượng giải quyết các VAHS được nâng lên.
Thứ hai, đào tạo và bồi dưỡng Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp Chúng ta đang trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp, việc kiện toàn và nâng cao chất lượng cho đội ngũ Thẩm phán ngành TAND nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Xuất phát từ vai trò, vị trí trung tâm của Thẩm phán trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử của Tòa án và xuất phát từ tình hình thực tế đội ngũ Thẩm phán TAND các cấp còn thiếu về số lượng và hạn chế về trình độ nên cần:
- Xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngày càng vững về chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng, có bản lĩnh nghề nghiệp kiên trung là một yêu cầu quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp mà Nhà nước ta đang thực hiện. Xây dựng kế hoạch rà soát lại đội ngũ Thẩm phán đương nhiệm cả về đạo đức nghề nghiệp và chuyên môn nghiệp vụ để bổ túc lại nghiệp vụ xét xử cho họ nhằm đáp ứng được nhiệm vụ xét xử ngày càng nặng nề như hiện nay và tiến tới phải biết đan xen tố tụng xét hỏi có kết hợp và mở rộng tranh tụng một cách linh hoạt và nhuần nhuyễn tại phiên tòa chứ không chỉ đơn thuần như áp dụng tố tụng xét hỏi như hiện nay. Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn cho đội ngũ Thẩm phán về kỹ năng điều khiển phiên tòa theo hướng tố tụng xét hỏi có kết hợp mở rộng tranh tụng như kỹ năng xét hỏi… cũng như cách ứng xử, lời nói, tác phong của Thẩm phán trên phiên tòa. Lời nói, cách ứng xử, tác phong của Thẩm phán phải thể hiện vai trò trọng tài, làm sao cho những người tham gia phiên tòa, những người đến dự phiên tòa cảm nhận được điều đó. Đối với nhiều nước theo kiểu tố tụng tranh tụng thì không có gì mới mẻ nhưng với nước ta tranh tụng còn là vấn đề mới mẻ.
- Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng theo từng giai đoạn và kế hoạch đào tạo bồi dưỡng hàng năm trên cơ sở rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ, Thẩm phán và các nhiệm vụ trong từng thời kỳ. Chú trọng việc đào tạo chuyên sâu sau đại học để xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán giỏi trên từng lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Phối hợp, liên kết với các trường đại học, trung tâm đào tạo khác cùng chuyên ngành để đa dạng hoá loại hình đào tạo, bồi dưỡng. Tăng cường công tác đào tạo, tự đào tạo qua hoạt động thực tiễn, như: qua các phiên toà rút kinh nghiệm…
- Mở rộng hợp tác quốc tế về vấn đề tư pháp, học tập kinh nghiệp của các nước bạn, trao đổi tài liệu, tổ chức các buổi hội thảo để các Thẩm phán có cơ hội tham gia để qua đó nâng cao chất lượng của Thẩm phán.
Thứ ba, về tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán
Những quy định của Luật Tổ chức Tòa án 2014 về việc bổ nhiệm Thẩm phán đã góp phần lựa chọn được đội ngũ cán bộ thực sự có đủ đức, đủ tài để đảm nhận chức danh Thẩm phán, chức danh có quyền năng pháp lý quan trọng, nhân danh Nhà nước đưa ra các phán quyết đối với những vấn đề liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực quan trọng nhất như: tự do, danh dự, tài sản, nhân thân và cả tính mạng của con người. Những quy định này đã tác động rất lớn đến phong trào tự học, tự rèn luyện, tự đào tạo trong đội ngũ cán bộ, công chức Toà án các cấp nâng cao phẩm chất chính trị, bản lĩnh, kinh nghiệm, kiến thức để tham gia thi tuyển, nâng ngạch Thẩm phán, tạo nguồn đội ngũ Thẩm phán kế cận có chất lượng cho các Toà án nhân dân. Trước những yêu cầu của nhiệm vụ cải cách tư pháp đối với công tác xét xử của Toà án các cấp và để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, cần tiến hành thực hiện các giải pháp sau đây:
- Xây dựng cơ chế tạo nguồn, tuyển chọn, sử dụng cán bộ, Thẩm phán trên cơ sở tiêu chuẩn của từng chức danh gắn với vị trí việc làm của từng đơn vị, Toà án.
- Các Toà án nhân dân phải tuân thủ đúng quy định của Nhà nước, của Toà án công tác tuyển dụng; bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch vì liên quan đến sự phát triển trong tương lai của hệ thống Toà án. Làm tốt công tác tuyển dụng sẽ tạo ra một thế hệ cán bộ tốt, tạo nguồn lực phát triển đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh. Xây dựng cơ chế thu hút cán bộ có trình độ; sinh viên tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, chuyên ngành Toà án loại giỏi về công tác tại các Toà án nhân dân. Có chính sách đặc thù, ưu tiên cho các Toà án địa phương vùng sâu, vùng
xa khó thu hút nguồn nhân lực có chất lượng trong công tác tuyển dụng và đào tạo (mở rộng hình thức cử tuyển, tăng cường việc đào tạo tập trung…).
- Tăng cường và đổi mới công tác đào tạo nguồn Thẩm phán. Để có được những Thẩm phán có năng lực thực sự, cần mở rộng nguồn tuyển chọn Thẩm phán, không chỉ đội ngữ cán bộ trong các cơ quan tư pháp (hiện nay chủ yếu là đội ngũ thư ký Tòa án và Thẩm tra viên) mà còn mở rộng nguồn tuyển chọn làm Thẩm phán từ các luật sư, luật gia và các chuyên gia pháp luật đây là nhóm giải pháp mang tính đột phá, vì làm tốt công tác này sẽ tạo được chuyển biến sâu sắc về chất lượng đội ngũ cán bộ mà chủ yếu là chất lượng đội ngũ Thẩm phán, chính vì vậy đã tập trung chỉ đạo, giao trách nhiệm cho các đơn vị chức trách lập kế hoạch và phối hợp với các cơ quan, cơ sở đào tạotrong và ngoài ngành tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, ngoại ngữ, tin học… cho cán bộ, công chức trong toàn ngành.
3.3.4. Tăng cường sự phối hợp giữa Thẩm phán và các cơ quan, cá nhân trong Tố tụng hình sự
Thứ nhất, đối với Hội thẩm nhân dân
Thẩm phán là người đại diện cho nhà nước, hội thẩm là người đại diện cho tầng lớp nhân dân, "Thẩm phán và hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật". Chính nhờ cơ chế độc lập giữa các thành viên trong HĐXX mà việc đưa ra các quyết định được bao quát và toàn diện hơn. Mỗi tiếng nói đóng vai trò như một lá phiếu ngang bằng nhau về thẩm quyền. Nhờ vậy mỗi bản án được đưa ra đã dung hòa được cả lợi ích của cả nhà nước lẫn lợi ích của người dân. Để hoạt động xét xử đạt hiệu quả đòi hỏi phải có sự phối hợp hoạt động của Thẩm phán và hội thẩm trong quá trình xét xử.
Hội thẩm không phải là cán bộ trong biên chế Tòa án mà là người của cơ quan, tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án. Hội thẩm có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên họ hiểu sâu hơn tâm tư nguyện vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ. Thực tiễn công tác xét xử của các Tòa án hiện nay cho thấy vai trò quan