CHƯƠNG 2: CÁC QUY LUẬT KHÍ HẬU CƠ BẢN Ở VIỆT NAM
4.4 Phân vùng khí hậu ứng dụng trên lãnh thổ Việt Nam
Phân vùng khí hậu ứng dụng là một dạng của phân vùng khí hậu nhằm phục vụ cho yêu cầu sử dụng riêng của từng đối tượng kinh tế xã hội có liên quan, trước hết là công tác quy hoạch, lập kế hoạch phát triển, công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất của các đối tượng này. Do đối tượng có liên quan đến môi trường khí hậu khá nhiều nên phân vùng khí hậu ứng dụng cũng rất đa dạng với nhiều loại hình khác nhau. Khác với phân vùng khí hậu tự nhiên, để có thể tiến hành phân vùng khí hậu ứng dụng cho một đối tượng nào đó phải biết được mối quan hệ tương tác giữa đối tượng đó với môi trường khí hậu. Việc nghiên cứu mối quan hệ này có thể được thực hiện từ 2 phía: chuyên ngành khí tượng hoặc chuyên ngành được ứng dụng. Từ nghiên cứu mối quan hệ tương tác này, những chỉ tiêu khí hậu phản ánh tác động của môi trường khí hậu đến các đối tượng được thiết lập. Chính nhờ vào các chỉ tiêu này và mức độ phân hóa của khí hậu đặc biệt các chỉ tiêu khí hậu đã được thiết lập để xây dựng sơ đồ và bản đồ phân vùng khí hậu thích hợp.
Trên lãnh thổ Việt Nam, cũng đã có nhiều dạng bản đồ phân vùng khí hậu ứng dụng đáp ứng yêu cầu của một số đối tượng kinh tế xã hội cụ thể như nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng, năng lượng,... Trong giáo trình này chỉ giới thiệu sơ đồ phân vùng khí hậu xây dựng Việt Nam của PGS. TS. Trần Việt Liễn và bản đồ phân vùng khí hậu sinh thái nông nghiêp của PGS. TS. Lê Quang Huỳnh.
4.4.1 Phân vùng khí hậu xây dựng Việt Nam
Đây là kết quả của đề nghiên cứu cấp Nhà nước "Phân vùng khí hậu xây
này đã được đưa vào sử dụng chính thức trong Tiêu chuẩn Việt Nam về xây dựng từ 1985 (TCVN 4088-85). Kết quả chi tiết được trình bày trong các công trình [7,9].
1) Đối tượng: Công tác quy hoạch và thiết kế xây dựng nói chung, thiết kế điển hình nhà ở nói riêng.
2) Phương pháp: Sử dụng chủ yếu phương pháp địa lý khí hậu.
3) Hệ thống phân vị và chỉ tiêu phân vùng: Chỉ số khí hậu chính được dùng để xây dựng chỉ tiêu phân vùng là chỉ số sinh-khí hậu "cán cân nhiệt cơ thể người" viết tắt là CCN, đơn vị tính là cal/phút.
CCN = QS - QX
trong đó QS là lượng nhiệt sản ra của cơ thể từ các quá trình chuyển hóa cơ bản và hoạt động cơ học của cơ thể; QX là lượng nhiệt xuất ra ngoài thông qua mặt da và đường hô hấp bằng quá trình bức xạ, đối lưu nhiệt và bốc hơi hơi nước từ mồ hôi, hơi thở. Với cơ thể người Việt Nam, CCN ứng với các ngưỡng cảm giác nhiệt như sau: lạnh (-700cal/p), hơi lạnh (-350cal/p), dễ chịu (-175 ÷ 160cal/p), hơi nóng (320cal/p) và nóng (640cal/p). Sau đây là các cấp phân vị và chỉ tiêu phân vùng.
Khoảng cách 2 bước cảm giác nhiệt: 640-700 cal/p.
a) Miền khí hậu: Chỉ tiêu là biên độ năm của chỉ số "Cán cân nhiệt cơ thể người" tính bằng cal/phút vượt quá một cấp "cảm giác nhiệt" của người Việt Nam là 700cal/phút. Các chỉ tiêu tham khảo là nhiệt độ trung bình năm (240C), tổng số giờ nắng năm (2000 giờ).
b) Vùng khí hậu: Chỉ tiêu là chỉ số CCN trung bình thời điểm 1 giờ tháng 1.
Các giới hạn chỉ tiêu sử dụng như: CCN = -700cal/phút; CCN = 0cal/phút và CCN
= 640 cal/phút. Các chỉ tiêu khí hậu tham khảo là: số ngày khô nóng; ảnh hưởng của bão; tổng độ - ngày (liên quan đến yêu cầu sưởi) tổng cal – giờ (liên quan đến làm mát), nhiệt độ hiệu dụng.
c) Vành đai khí hậu: Chỉ tiêu là chỉ số CCN trung bình thời điểm 13 giờ tháng 7. Chỉ tiêu khí hậu tham khảo là tổng cal - giờ.
4) Kết quả PVKH xây dựng Việt Nam
Các hình 4.4 và 4.5 cho sơ đồ và bản đồ phân vùng khí hậu xây dựng Việt Nam. Như vậy trong sơ đồ này, khí hậu Việt Nam được chia thành 2 miền có ranh giới là dãy núi Bạch Mã nằm giữa 2 tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Nam - Đà Nẵng, được phân chia bởi đường đẳng biên độ năm của CCN bằng 700cal/phút.
Trên miền khí hậu phía Bắc biên độ năm của CCN đạt 700-400cal/phút cho thấy có 2 mùa nóng -lạnh khác nhau rõ rệt. Trong khi đó ở miền Khí hậu phía Nam, biên độ năm của CCN chỉ khoảng 300-700cal/phút, cho thấy ở đây chỉ có một mùa nhiệt theo cảm giác của con người.
Cả nước được chia thành 5 vùng khí hậu cơ bản, trong đó miền Khí hậu phía Bắc có 3 vùng và miền khí hậu phía Nam có 2 vùng. Ngoài ra, trong sơ đồ này còn đưa ra một cấp phân vị đặc biệt là các cấp vành đai khí hậu phân theo độ cao địa hình. Điều này rất quan trọng vì sự thay đổi của trạng thái nhiệt của môi trường khí hậu theo độ cao còn mạnh mẽ hơn nhiều so với phương ngang. Vấn đề chống nóng, lạnh cho nhà ở nói riêng, công trình xây dựng nói chung không thể không tính đến sự phân hóa này. Chính vì thế, đối với các vùng núi khi xem xét điều kiện khí hậu phải xét đến đồng thời cả 2 cấp vùng và cấp đai cao. Đó cũng là một trong những lý do quan trọng để tách các vùng các vùng núi khỏi các vùng đồng bằng, ven biển có địa hình tương đối đồng nhất. Như vậy trong sơ đồ này, khí hậu Việt Nam được chia thành 2 miền với 5 vùng khí hậu cơ bản và 3 cấp vành đai khí hậu.
Hình 4.7
Hình 4. 4: Sơ đồ phân vùng khí hậu xây dựng Việt Nam [2]
Hình 4. 5:Bản đồ phân vùng khí hậu xây dựng Việt Nam [3]
4.4.2 Phân vùng khí hậu nông nghiệp Việt Nam
Đây cũng là một kết quả của đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước thuộc chương trình 42A do Tổng cục KTTV chủ trì (1985-1990).
- Đối tượng: hệ sinh thái nông nghiệp, phục vụ công tác quy hoạch, tổ chức quản lý, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: địa lý khí hậu.
- Hệ thống phân vị, chỉ tiêu phân vùng: hệ thống phân vị một cấp: vùng khí hậu nông nghiệp. Chỉ tiêu khí hậu là tổng tích nhiệt hữu hiệu, tổng lượng mưa, tổng lượng bốc thoát hơi tiềm năng và tổng bức xạ quang hợp cả năm.
Hình 4.8
Hình 4. 6: Bản đồ phân vùng khí hậu nông nghiệp Việt Nam [5]