3.2. Một số chủ trương, biện phỏp đẩy mạnh quỏ trỡnh CNH, HĐH ở níc ta trong thêi gian tíi
3.3.5. Về phát triển các ngành dịch vụ
Trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam, các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng khá lớn (gần 40%), nhưng vẫn là các ngành mới và yếu, đặc biệt là thiếu những ngành dịch vụ chất lượng cao và tạo ra giá trị lớn. Trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng dịch vụ luôn thấp hơn tốc độ tăng GDP do vậy, xu hướng gia tăng tỷ trọng dịch vụ là chưa vững chắc. Trước thời kỳ đổi mới, các ngành dịch vụ bị coi nhẹ và đến nay vẫn còn dấu ấn tiêu cực nặng nề cả về nhận thức, thể chế, chính sách cho đến các hoạt động kinh doanh. Nhìn chung, các ngành dịch vụ chưa đáp ứng tốt những yêu cầu về số lượng và chất lượng ngày càng gia tăng của nền kinh tế. Xét ở khía cạnh khác, triển vọng phát triển các ngành dịch vụ là rất lớn do nhiều tiềm năng chưa được khai thác và phát huy đủ mức. Theo mục tiêu đến năm 2020 khi nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, tỷ trọng dịch vụ trong GDP chiếm từ 45-50%, tức là tăng hơn 5% so với hiện nay.
Khoảng cách này là không quá lớn, tuy nhiên, nếu không có các biện pháp thích hợp để phát triển các ngành dịch vụ thì rất khó có thể đạt được mục tiêu nêu trên. Điều này được minh chứng rõ bởi thực tế rằng, năm 1990 tỷ trọng dịch vụ trong GDP của nước ta đạt 38,59%, tăng lên đỉnh điểm 44,06% vào năm 1995,
dịch vụ trong GDP chỉ tăng chưa đầy 1%. Tuy nhiên, bối cảnh từ nay đến năm 2020 có những khác biệt lớn so với giai đoạn từ năm 1990 đến nay. Một mặt, các ngành dịch vụ có điều kiện phát triển thuận lợi do nhu cầu lớn của nền kinh tế, mặt khác các ngành này buộc phải tìm mọi cách phát triển để có thể đứng vững trong cạnh tranh khi Việt Nam thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này cho thấy rằng mục tiêu tăng thêm hơn 5% về tỷ trọng dịch vụ trong GDP trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2020 là hợp lý. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải có những đổi mới quan trọng về chủ trương cũng như thực hiện các biện pháp có hiệu quả thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ:
- Thứ nhất: Phát triển mạnh dịch vụ cùng với công nghiệp và nông-lâm- ngư nghiệp tạo nên một cơ cấu có hiệu quả, năng động và hiện đại của nền kinh tế. Các ngành dịch vụ không chỉ được gia tăng mạnh về khối lượng, đa dạng hoá về loại hình, mà còn được cải thiện căn bản về chất lượng, giảm giá cước để hỗ trợ đắc lực và có hiệu quả sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, đồng thời góp phần nâng cao mức sống của xã hội.
- Thứ hai: Phát triển các ngành dịch vụ phải khai thác những lợi thế cạnh tranh của đất nước, gắn với thị trường trong nước và thế giới. Có ưu tiên thỏa đáng cho việc phát triển các ngành dịch vụ có tác động lớn đến hiệu qủa kinh tế, xã hội (cụ thể là liên quan đến phát triển theo chiều sâu, đến chất lượng tăng trưởng) và liên quan đến phát triển nguồn nhân lực như: dịch vụ khoa học-công nghệ, ngân hàng, tài chính, viễn thông, vận tải, giáo dục-đào tạo, y tế, v.v.
- Thứ ba: tích cực chuẩn bị thực hiện các cam kết mở cửa dịch vụ theo lộ trình trong các khung khổ hội nhập quốc tế, nhất là khung khổ GATS của WTO khi Việt Nam gia nhập tổ chức này, cần tranh thủ tối đa khoảng thời gian chưa phải thực hiện cam kết để phát triển và mở rộng các ngành dịch vụ ở trong nước. Nhờ vậy, các doanh nghiệp dịch vụ trong nước sẽ có điều kiện chiếm lĩnh thị trường trong nước, tạo lập vị trí vững chắc để có thể cạnh tranh được với các đối thủ nước ngoài khi mở cửa.
* Một số biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ
- Thứ nhất: Cần tiến hành cấp bách việc rà soát tất cả các ngành dịch vụ để đánh giá hiện trạng, năng lực cạnh tranh, tiềm năng và xu hướng phát triển của chúng, trên cơ sở đó xây dựng một chiến lược phát triển các ngành dịch vụ
của Việt Nam từ nay đến năm 2020. Việc rà soát nên được thực hiện theo các ngành dịch vụ được phân định bởi Hiệp định chung về các Dịch vụ liên quan đến Thương mại (GATS) của WTO. Việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển dịch vụ phải gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp và các chương trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Thứ hai: Tăng cường huy động các nguồn lực trong xã hội bằng cách mở rộng sự tham gia của khu vực tư nhân và nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh các ngành dịch vụ, giảm thiểu độc quyền nhà nước, tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường. Thí dụ, trong các ngành điện lực và viễn thông, Nhà nước cần tách chức năng quản lý đường trục quốc gia với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp để có nhiều doanh nghiệp hơn tham gia kinh doanh. Ngày 11/3/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định 31/2005/NĐ-CP về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và hợp tác xã đều được tham gia sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo các phương thức đặt hàng, đấu thầu hoặc giao kế hoạch.
Nghị định này được đánh giá là mở ra cho các chủ thể kinh tế ngoài nhà nước những cơ hội đầu tư, kinh doanh mới, vì vậy có thể tạo ra một cuộc chạy đua thực sự giữa các thành phần kinh tế trong việc sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích- những hàng hoá trước đây thường gắn chặt với các doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là phải thực hiện có hiệu quả Nghị định 31/ 2005/NĐ-CP trong thực tế. Trong một số ngành dịch vụ mang tính xã hội như giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường v.v., cần đẩy mạnh công tác xã hội hoá. Muốn vậy, Nhà nước cần xây dựng và ban hành các quy định pháp lý và các chính sách rõ ràng về phương thức và các hình thức xã hội hoá.
- Thứ ba: Nhà nước cần có các chính sách trợ giúp thích hợp những doanh nghiệp mới tham gia đầu tư và kinh doanh các ngành dịch vụ hoặc những doanh nghiệp tham gia đầu tư và kinh doanh các ngành dịch vụ mới, nhất là về phát triển nguồn nhân lực. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh dịch vụ đến các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, một mặt nhằm giúp các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường trong nước, mặt khác giúp đáp ứng các nhu cầu đời sống kinh tế-xã hội của những vùng này. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ ra nước ngoài dưới các hình thức đa dạng, từ cung cấp qua biên giới cho đến hiện diện thể nhân ở nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế nhận làm các dịch vụ được chuyển ra bên ngoài (out-sourcing) từ các nước phát triển, tiêu biểu là các dịch vụ như: kế toán, thiết kế kỹ thuật, thiết kế phần mềm…
- Thứ tư: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ thông qua các biện pháp như: đẩy mạnh thực hiện lộ trình giảm giá cước dịch vụ xuống mức ít nhất là ngang bằng với các nước trong khu vực; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất và kinh doanh dịch vụ; phát huy lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng, từng thời kỳ; thay đổi phương thức và thái độ phục vụ để hướng tới khách hàng nhiều hơn, vì lợi ích của khách hàng…
Đáp ứng với những thách thức trong quá trình trong hội nhập, trước hết Nhà nước cần xây dựng một lộ trình mở cửa dịch vụ thích hợp, phù hợp với những cam kết quốc tế và sát với thực tế nước ta, tiếp đến các ngành, các cấp và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chủ động, sẵn sàng đón nhận sự cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và nước ngoài.
3.3.6. Về phát triển khoa học và công nghệ
Văn kiện Đại hội VIII có nêu trong phần quan điểm về CNH, HĐH như sau: “Khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định”.
Đến Đại hội IX, báo cáo chính trị nêu “Phát triển khoa học và công nghệ cùng vớiphát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” (trang 112). Báo cáo Chiến lược nhấn mạnh: “Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ ... Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành then chốt để tạo bước nhảy vọt về kinh tế ... Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”.
Muốn cho khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực của sự phát triển thì trước hết phần khai thác tiềm năng và đóng góp của khoa học công nghệ vào sự phát triển kinh tế xã hội phải có hiệu quả ngày càng cao.
Việc tiếp tục đổi mới quản lý khoa học công nghệ có thể theo các hướng sau:
- Nhà nước có trách nhiệm ban hành các chính sách quản lý và khuyến khích hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, đồng thời xác định những hướng ưu tiên về khoa học công nghệ từng thời kỳ tương ứng với (hoặc đi trước một bước) các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Về nghiên cứu khoa học, công nghệ, Nhà nước đặt hàng bằng phương thức giao thầu hoặc đấu thầu các đề tài về quản lý nhà nước (chính trị, kinh tế, xã hội) và khoa học cơ bản (tự nhiên, xã hội), đồng thời lập quỹ phát triển khoa học, công nghệ để hỗ trợ một phần cho các đề tài về sản xuất, kinh doanh phục vụ các hướng ưu tiên quốc gia và bù đắp cho phần rủi ro trong nghiên cứu khoa học công nghệ.
- Các doanh nghiệp lập quỹ phát triển khoa học công nghệ được ưu đãi về thuế,(riêng doanh nghiệp nhà nước bắt buộc phải lập quỹ này) và được ưu tiên khi khai thác các kết quả nghiên cứu công nghệ trong nước. Doanh nghiệp tự đặt hàng với các tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ, được hỗ trợ của Quỹ phát triển khoa học công nghệ của Nhà nước và tự nghiệm thu kết quả đem vào áp dụng. Doanh nghiệp nhà nước phải được hưởng quyền tự chủ cao về kế hoạch, tài chính và nhân sự và trong quá trình tự chủ, tự chịu trách nhiệm đó phần ưu tiên phải dành cho lĩnh vực khoa học công nghệ.
- Tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ cần tổ chức và quản lý theo cơ chế tổ chức sự nghiệp đổi mới, trên cơ sở tách riêng cơ quan hành chính và tổ chức sự nghiệp.
- Thu nhập của cán bộ nghiên cứu khoa học phải dựa vào kết quả và hiệu quả của lao động khoa học đã bỏ ra.