Có hai nhánh của đạo ki tô đã được truyền vào Việt Nam là Công giáo và đạo Tin lành.
1. Công giáo ở Việt Nam
Công giáo được truyền vào Việt Nam từ 1533 do các giáo sxi Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha theo các thuyền buôn vào nước ta. Thời gian đầu, do các giáo sĩ chưa
quen thông thổ, chưa thạo ngôn ngữ nên việc truyền giáo không thấy kết quả. Năm 1628, chúa Trịnh Tráng ra lệnh cấm người Việt Nam không được tiếp xúc với Tây dương đạo trưởng. Các giáo sĩ bị trục xuất khỏi Đàng ngoài.
Từ năm 1613, khi các giáo sĩ dòng Tên thuộc Bồ Đào Nha từ Trung Quốc vào Việt Nam, hoạt động truyền giáo có kết quả hơn nhiều do nhiều giáo sĩ thông thạo ngôn ngữ và đường đi lại. Năm 1626, giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến Thanh Hóa.
Ông là người có nhiều sáng kiến trong hoạt động truyền giáo, lại thông thạo tình hình nên đã được bề trên dòng Tên ở Việt Nam cử về Rô ma chọn người xin Giáo hoàng phong Giám mục và phái sang Việt Nam. Do mang nặng tình cảm với nước Pháp Alexandre de Rhodes đã chọn cử hai giáo sĩ người Pháp là Francoi Pallu và Lambert de la Motte.
Năm 1658, Hội truyền giáo Pa ri được thành lập do Pháp bảo trợ vfa dược Giáo hoàng A lếch xăng VII cho phép độc quyền truyền giáo ở Việt Nam. Vai trò truyền giáo vào Việt Nam của các giáo sĩ của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha ngày càng lu mờ.
Năm 1659, Giáo hoàng ban sắc lệnh thành lập hai giáo phận đầu tiên ở Việt Nam là Đàng trong do Giám mục Lambert de la Motte là đại diện Tông tòa và Đàng ngoài do Giám mục Francoi Pallu làm đại diện Tông tòa.
Dưới sự bảo trợ của Pháp, đạo Công giáo ở Việt Nam đã phát triển khá nhanh.
Năm 1679, Tòa thánh chia địa phận Đàng ngoài thành hai địa phận là: địa phận Tây Đàng ngoài và địa phận Đông Đàng ngoài,
Năm 1771, Giám mục Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) được sử làm Đại diện Tông tào Đàng trong. Đây là vị Giám mục có nhiều hoạt động trợ giúp Nguyễn Ánh trong việc chống lại phong trào Tây Sơn
Dưới thời vua Gia Long (1802 - 1819), Công Giáo phát triển yên ổn. Đến thời vua Minh Mạng (1820 - 1840), các thừa sai nước ngoài bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam. Năm 1883, vua Minh mạng ban hành chỉ dụ cấm đạo. Thời vua Thiệu Trị (1841 - 1847), Công giáo được phép hoạt động trở lại, chia thành 4 địa phận gồm:
địa phận Đông Đàng trong, địa phận Tây Đàng trong, địa phận Tây Đàng ngoài và địa phận Nam Đàng ngoài.
Từ năm 1847, Tự Đức lên ngôi, lại tiếp tục ban hành lệnh cấm đạo. Nhưng do pahir nhượng bộ với thực dân Pháp, năm 1862, triều đình Huế phải kí với Pháp Hòa ước Nhâm Tuất cho phép Công giáo ở Việt Nam được tự do hoạt động. Tuy nhiên, phải đến Hòa ước Giáp Tuất (1874), đạo Công giáo mới thực sự được tự do hoạt động và phát triển.
Đến năm 1850, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã có khoảng 500.000 giáo dân.
Hàng loạt các nhà thờ chính tòa, các thánh đường, trường học.... được xây dựng như Thánh đường Phát Diệm được xây từ năm 1875 đến 1895, nhà thờ Đức bà Sài Gòn được xây năm 1880, nhà thờ Đức Mẹ Trà Kiệu xây dựng năm 1898, nhà thờ La Vang xây năm 1901,.... các đại phận đều có các dòng tu ngoại quốc đến lập cơ sở.
Thêm vào đó là các dòng tu Việt Nam được thành lập, như: Ki tô vua Cái Nhum (Vĩnh Long), Thánh Tâm (Huế), Thánh Giu se (Nha Trang)....
Đến năm 1933, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã có đến 13 địa phận, với tổng số 16 giám mục, 2.216 linh mục (trong đó 1.888 linh mục người Việt Nam, 328 linh mục thừa sai), 3.945 tu sĩ, 5.098 nhà thờ, 1.297.228 giáo dân. Năm 1933, sau 400 năm truyền giáo, Công giáo mới có một người Việt đầu tiên được phong chức giám mục là Nguyễn Bá Tòng. Từ đây, Giáo hội Công giáo Rô ma giao quyền tự quản cho Giáo hội Việt Nam.
Trong cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bên cạnh một bộ phận trong hàng giáo phẩm lợi dụng thần quyề giáo lí để phục vụ chủ nghĩa chống Cộng, nhiều chức sắc và đồng bào theo Công giáo vẫn có những đóng góp tích cực, nhiều linh mục đã lên đường tham gia kháng chiến, có linh mục đã làm nòng cốt cho phong trào người Công giáo kính chúa, yêu nước, có linh mục đã ngã xuống dưới mũi súng của quân thù.
Năm 1960, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập hàng giáo phẩm cho Giáo hội Công giáo Việt Nam và thành lập 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế, Sài Gòn, với 3 vị tổng giám mục là người Việt phụ trách,
Năm 1980, Hội đồng Giáo mục Việt Nam tiến hành Đại hội lần thứ nhất, Hội dồng hoạt động theo phương châm mục vụ là "Sống phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc đồng bào".
Cho đến nay, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã có 3 vị Hồng y được Giáo hội la Mã tấn phong là: Hồng y Trịnh Như Khuê (1976), Hồng y Trịnh Văn Căn (1980) và Hồng y Phạm Đình Tụng (1994).
Hiện nay, Giáo hội công giáo Việt Nam đã có hơn 5.000.000 giáo dân, 33 giám mục, 2.200 linh mục ở giáo phận thuộc 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế, thành phồ Hồ Chí Minh.
Hơn 5 triệu tín đồ Công giáo hăng hái tham gia lao động sản xuất, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Các hoạt động đạo và đời gắn bó với nhau theo tính thần "tốt đời, đạo đẹp", “kính chúa, yêu nước”, Giáo hội Công giáo có nhiều hoạt động theo hướng canh tân để tăng cường củng cố đức tin, tăng cường giáo quyền.
Tuy nhiên, trong Công giáo vẫn còn số ít chức sắc bị các phần tử phản động trong và ngoài nước lôi kéo, kích động nên đã có những biểu hiện chống đối chính quyền Nhà nước, gây mất trật tự và ổn định xã hội. Vụ Nguyễn Văn Lý ở giáo xứ An Truyền - tỉnh Thừa Thiên Huế lợi dụng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhà nước vi phạm pháp luật là một ví dụ.
2. Đạo Tin lành ở Việt Nam
Từ những năm 80 của thế kỉ XIX, Tin lành đã được truyền bá vào Việt Nam do các mục sư người Pháp. Thời gian đầu việc rao giảng đạo tin lành ít có hiệu quả do gặp những phong tục tập quán lâu đời và các tôn giáo truyền thống của người dân bản địa.
Vào năm 1911 Hội liên hiệp cơ đốc và truyền giáo (CMA) của Mỹ lập được cơ sở ở Đà Nẵng. Đến năm 1954 số lượng tín đồ Tin lành có tới 50.000, có gần 100 mục sư với giáo hội chung là Tổng hội thánh Tin lành Việt Nam.
Sau năm 1975 đến nay, Tin lành trong cả nước được sự chú ý của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là Mỹ. Các hệ phái Tin lành ở Mỹ có liên quan đến Tin lành ở
Việt Nam là: Tin lành Bắp tít, Tin lành Cơ đốc phục lâm, Tin lành Trưởng lão, Tin lành Ngũ tuần, tin lành Giám lí. Tin lành hoạt dọng khá tích cực với chủ trương
"nhập thế" và đảm bảo nguyên tắc: tôn trọng tập quán, phong tục, dùng phong tục tập quán, ngôn ngữ địa phương để bản dịa hóa những tín điều trong kinh thánh.
Hiện nay, Tin lành rất chú ý truyền đạo ở các vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên, nơi có số đông dồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Trong những năm gần đây, do kẻ xấu ở trong nước và nước ngoài kích động xúi giục xuất hiện một số vụ việc đã vượt khỏi giới hạn, phạm vị tôn giáo như vấn đề Tin lành Đề Ga ở Tây Nguyên, Vàng chứ - Tin lành ở vùng núi phía Bắc... Vấn đề trở nên phức tạp nếu không được giải quyết trên cơ sở đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, những giải pháp cấp thiết và chiến lược thể hiện tính khoa học và phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Chương 5