Chất lượng tinh trùng cá Basa với chất bảo vệ methanol.

Một phần của tài liệu Bảo quản tinh trùng cá basa, cá tra potx (Trang 27 - 28)

Chất lượng cá Basa tinh trùng bảo quản dài ngày trong dung dịch Nitơ với chất bảo vệ methanol được trình bày ở bảng 26 như sau.

Bảng 26 Chất lượng tinh trùng cá Basa với chất bảo vệ Methanol trong thí

nghiệm bảo quản tinh trùng dài ngày.

Dung dịch cố định tinh trùng Đối chứng TRIS CF-HBSS Nồng độ Methanol VĐ TG Đ VĐ TG Đ VĐ TG Đ 5% 85,0b 94,0b 5,0b 2,5a 16,0a 0,5a 10,0a 41,0a 1,0a 10% 85,0b 94,0c 5,0c 10,0a 44,5b 1,0a 0,0a 0,0a 0,0a 15% 85,0b 94,0b 5,0b 0,0a 0,0a 0,0a 2,5a 12,0a 0,5a 20% 85,0b 94,0b 5,0b 2,5a 14,0a 0,5a 0,0a 0,0a 0,0a

Các giá trị cùng hàng có cùng mẫu tự thì không có sự sai khác ở xác suất 95% (P<0,05). Ngược lại, các giá trị cùng hàng không cùng mẫu tự thì có sự sai khác.

Ghi chú

VĐ: là phần trăm tinh trùng vận động (đơn vị %). TG: thời gian tinh trùng vận động, tính bằng giây.

Đ: kiểu tinh trùng vận động (theo thang điểm đánh gía tinh trùng của Sanchez-Rodiguez và Billard 1975).

Kết quả bảng 26 cho thấy rằng phần lớn tinh trùng bị chết hoàn toàn sau khi bảo quản dài ngày trong Nitơ lỏng ở tất cả các nồng độ của chất bảo vệ methanol, chất lượng của tinh trùng còn sống sót lại rất thấp và không có khả năng thụ tinh (theo kết quả của thí nghiệm bảo quản tinh trùng ngắn ngày).

Qua đó cho thấy chất bảo vệ methanol không đạt yêu cầu làm chất bảo vệ cho tinh trùng trong thí nghiệm bảo quản tinh trùng dài ngày do đặc điểm của methanol có tỷ trọng

thấp tỷ lệ thẩm thấu rất cao nên đã gây hại cho tinh trùng (Shlafer, 1981; trích bởi Niall R. Bromage và Ronald J. Roberts)

Tóm lại, khi sử dụng ba chất bảo vệ glycerol, methanol và DMSO trong thí nghiệm bảo quản tinh trùng cá Basa dài ngày thì chỉ có chất bảo vệ DMSO là cho kết quả tương đối, và hai nồng độ DMSO thích hợp nhất là 5% và 10%. Còn hai chất bảo vệ methanol và glycerol là không đạt yêu cầu của thí nghiệm.

Tuy nhiên chúng tôi nhận xét thấy rằng, hoạt lực tinh trùng bảo quản trong Nitơ lỏng so với tinh trùng tươi thì không đạt kết quả như mong muốn. Qua đó có thể thấy rằng trong quá trình bảo quản, chưa xác định tốt thời gian thẩm thấu của chất bảo vệ vào tế bào tinh trùng, cũng như tốc độ hạ nhiệt chưa tối ưu…

Thời gian thích hợp để giúp cho chất bảo vệ có thể thẩm thấu vào tế bào tinh trùng, làm cho môi trường ngoài và bên trong tế bào được cân bằng trước khi cho hạ nhiệt. Điều này còn tùy thuộc vào chất bảo vệ và nồng độ chất bảo vệ. Các chất bảo vệ dùng trong thí nghiệm như DMSO, methanol, glycerol đều chứa nhiều nước, gây độc cho tế bào ở nồng độ cao, đồng thời chúng có khả năng thẩm thấu vào trong tế bào. Khả năng thẩm thấu này có liên quan đến trọng lượng phân tử của chất bảo vệ. Chất bảo vệ có trọng lượng phân tử thấp thì có khả năng xuyên qua màng tế bào một cách dễ dàng (gọi là chất bảo vệ nội bào). Chất bảo vệ methanol có trọng lượng phân tử thấp nhất (32,04), đến DMSO (78,13) và cao nhất là glycerol (92,1). Đối với nồng độ chất bảo vệ, do bản thân chúng là chất gây độc cho giao tử nhất là ở nồng độ cao; làm giảm sự sống tinh trùng. Chất bảo vệ methanol dể dàng thẩm thấu nhất nhưng nếu kéo dài thời gian cân bằng làm cho tế bào protein bị biến tính (Shlafer 1981), điều này ảnh hưởng đến khả năng sống của tinh trùng trước khi đông. Các chất bảo vệ này khi cho vào dung dịch tinh trùng thì có hiện tượng nước từ môi trường ngoại bào bắt đầu đi vào bên trong tế bào. Khi hạ điểm đông xuống thì tế bào có hiện tượng trương phồng lên; nếu hạ nhiệt độ xuống chậm quá, việc hình thành các tinh thể đá sẽ gây hại đến tế bào tinh trùng bằng cách là làm các tế bào phồng lên và có thể bị vỡ. Do đó, chất bảo vệ ngoại bào có vai trò trong việc giúp môi trường ngoại bào và nội bào được cân bằng. Điều này có nghĩa là tế bào phồng lên (đã cho chất bảo vệ nội bào vào) rồi cho chất bảo vệ ngoại bào vào thì có hiện tượng nước bên trong tế bào sẽ thoát ra ngoài, lúc này tế bào không phồng lên mà được co lại. Khi hạ nhiệt độ xuống điểm đông, các tế bào tinh tùng trở lại trạng thái cân bằng. Trở lại với thí nghiệm cho thấy đã không sử dụng chất bảo vệ ngoại bào, cho nên đã ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng.

Tốc độ hạ nhiệt là một yếu tố quan trọng dẫn đến thành công trong việc bảo quản tinh trùng. Tế bào tinh trùng được làm làm lạnh nhanh quá hay được làm lạnh chậm quá thì cũng ảnh hưởng không tốt đến chất lượng tinh trùng.

Một phần của tài liệu Bảo quản tinh trùng cá basa, cá tra potx (Trang 27 - 28)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(34 trang)