BÀI 6 CHẾ ĐỘ KINH TẾ
3. Chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế
Chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản trong chế độ kinh tế. Chính vì vậy mà việc điều chỉnh các quan hệ sở hữu luôn luôn đặt ra đối với Hiến pháp các nước khác cũng như đối với Hiến pháp nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa được tiến hành mạnh mẽ. Hiến pháp 1992 thể chế hóa đường lối này của Đảng. Việc thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất bên cạnh các loại hình sở hữu khác là điểm mấu chốt trong chế độ kinh tế nước ta giai đoạn này. Các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư
---
bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước được phát triển, bình đẳng trước pháp luật, tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh.
Như vậy trên thực tế đã có sự thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa. Ở đây nhà nước ta chủ trương không phải từ bỏ những nguyên tắc kinh tế xã hội chủ nghĩa mà là sử dụng và phát huy tác dụng tích cực của các thành phần kinh tế đó trong đó kinh tế quốc doanh vẫn chiếm địa vị chủ đạo.
Hiện nay ở nước ta đang tồn tại những hình thức sở hữu chủ yếu sau:
Sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước)
Đây là hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nó bao quát những tư liệu sản xuất chủ chốt quyết định sự phát triển của nền kinh tế.
Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, tài sản do Nhà nước đầu tư vào các công trình, các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, quốc phòng, ngoại giao ...
Tài sản thuộc sở hữu toàn dân là tài sản chung của toàn xã hội. Chủ thể của sở hữu này là toàn thể nhân dân mà Nhà nước là đại diện. Nhà nước với tính cách là đại diện chủ sở hữu của toàn dân định đoạt tài sản của Nhà nước, thực hiện thẩm quyền của nhân dân đối với tài sản đó. Nhà nước là chủ thể thống nhất và duy nhất đối với tất cả tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Nhà nước giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho các tập thể, cá nhân sử dụng theo quy định của pháp luật và hiệu quả.
Chẳng hạn như đất đai là tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng theo quy định của pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường cần phải củng cố và tăng cường sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Bởi vì chỉ có phát huy ưu thế của các thành phần kinh tế này thông qua cạnh tranh lành mạnh thì mới chế ngự mặt tiêu cực của sở hữu tư nhân. Vì thế, Hiến pháp 1992 quy định “ kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân” (Điều 19).
Sở hữu tập thể
Đây là loại hình sở hữu xã hội chủ nghĩa gần giống với sở hữu toàn dân. Tuy nhiên nó có những điểm khác so với sở hữu toàn dân về chủ thể, phương pháp hình thành, phạm vi các đối tượng tài sản và trật tự quản lý.
Sở hữu tập thể bao gồm sở hữu của các hợp tác xã sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng.
Tài sản thuộc sở hữu tập thể là tài sản không nằm trong diện sở hữu tuyệt đối của Nhà nước và được sử dụng để tiến hành các hoạt động sản xuất tương ứng hay phục vụ các nhu cầu sản xuất, văn hóa, đời sống của các thành viên trong tập thể.
---
Sở hữu cá nhân
Hình thức sở hữu này cũng được xác định là một loại hình sở hữu xã hội chủ nghĩa. Nguồn chủ yếu của sở hữu này là kết quả lao động của cá nhân và phần quỹ tiêu dùng xã hội mà cá nhân được hưởng. Tài sản thuộc sở hữu cá nhân chủ yếu là những sản phẩm tiêu dùng. Chủ thể của sở hữu cá nhân là các thành viên trong xã hội trực tiếp tham gia lao động sản xuất.
Sở hữu cá nhân bắt nguồn từ lao động do có sự tham gia lao động xã hội mà có.
Nguồn của sở hữu cá nhân là thu nhập do lao động và các thu nhập chính đáng khác. Sản phẩm thuộc kinh tế phụ gia đình cũng thuộc vào sở hữu cá nhân. Người làm kinh tế phụ gia đình là cán bộ, công nhân viên nhà nước, xã viên hợp tác xã tự bỏ sức lao động của mình không gắn với bóc lột sức lao động của người khác. “ Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển “ (Điều 21).
Sở hữu tư nhân
Sở hữu tư nhân là sở hữu của lao động cá thể, tư bản tư nhân trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải.
Thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là một bước phát triển trong chế độ kinh tế nước ta. Khi mà việc tồn tại nhiều hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất còn là khách quan, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nước ta trong giai đoạn hiện nay mà chủ trương xoá bỏ tư hữu, phát triển sở hữu toàn dân thuần khiết, nhất là các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa này chưa đủ sức giải quyết mọi vấn đề kinh tế - xã hội thì chẳng những kiềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất mà sở hữu toàn dân cũng bị suy vong vì cung cách quản lý hành chính mệnh lệnh, độc quyền. Thừa nhận và bảo vệ sở hữu tư nhân là nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên cần phải thấy mặt trái luôn luôn tiềm ẩn của sở hữu tư nhân là sự chiếm hữu lợi ích kinh tế. Để ngăn ngừa tình trạng này cần phải phát huy ưu thế của các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, vừa tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển vừa bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Sở hữu hỗn hợp
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta có dự kiến phát triển kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức. Điều 16 Hiến pháp 1992 khẳng định phát triển thành phần kinh tế này.
‘Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc
---
doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức”.