Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TIỂU VÙNG VĂN HÓA THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
1.3. Tổng quan về văn học dân gian Thái Nguyên
1.3.1. Một số thể loại cơ bản
Chỉnh thể VHDG Thái Nguyên trong các thành tựu đã sưu tập hiện nay chưa đủ dữ kiện để dựng lại một hệ thống tiến trình phát triển của nó trong lịch sử. Do đó, chỉ có thể giới thiệu văn học dân gian Thái Nguyên là một di sản đa thể loại hợp thành. Trong đó văn học dân gian Tày - Nùng giữ vai trò chủ thể giữa một toàn cảnh văn hóa giàu bản sắc tộc người, tạo thành bản sắc Thái Nguyên.
1.3.1.1. Loại hình tự sự dân gian
Tác giả Đinh Gia Khánh là một trong số những bậc tiền bối đã sớm đưa ra những ý kiến đề xuất về đặc trưng khu biệt trong quá trình nhận thức các thể loại văn học dân gian. Trong đó chủ yếu là sự nhận diện các thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian và về cơ bản có sự gần gũi nhau về mặt thể loại cũng như thời điểm ra đời, đặc biệt trong đó là những nhận định của ông về ba thể loại thần thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích. Quan điểm nhận diện của ông trên cơ sở kết hợp sự tham kiến quan điểm nghiên cứu của các nhà folklore thế giới và đặc biệt là dựa trên cơ sở tư liệu văn học dân gian Việt Nam. Đó là những quan điểm khoa học hết sức mới mẻ, sâu sắc và đầy tính thuyết phục về những vấn đề cơ bản của folklore nói chung cũng như việc nghiên cứu về lịch sử, cấu trúc, đặc trưng của các thể loại văn học dân gian nói riêng. Những đóng góp lớn lao này đã đưa ông lên vị trí hàng đầu trong các nhà folklore học và cổ tích học Việt Nam.
Đối với văn học Thái Nguyên, cũng có nhiều nét tương với quan điểm nhận xét về loại hình tự sự dân gian nói trên
Thần thoại Thái Nguyên khá phong phú đa dạng. Trong đó thần thoại suy nguyên còn ít được sưu tập ngoài các mẫu kể đơn giản về người khổng lồ Tài Ngào vẫn được lưu truyền ở thần thoại H'mông - Dao cũng như thần thoại Sán Dìu, Trại Đất…ít mang bản sắc địa phương, nhưng cũng tập hợp thành các nhóm mẫu kể trên các địa bàn Định Hóa, Đại Từ và vùng ngoại thành Thái Nguyên. Hầu hết, bộ phận này là các thần thoại nguồn gốc tộc người, tộc danh và địa danh. Cá biệt, có thần thoại Tày khá trùng khớp với thần thoại Việt Mường (Sự tích các dân tộc Tày, Nùng, Mèo, Dao là anh em).
Truyền thuyết Thái Nguyên nổi đậm màu sắc tiếp xúc và hội tụ. Nổi bật hơn cả là truyền thuyết địa danh gắn liền với những anh hùng lịch sử dân tộc sẽ được nhắc đến cụ thể hơn ở phần sau.
Cổ tích Thái Nguyên là cả kho tàng phong phú bao gồm từ những mẫu kể còn đơn giản, chỉ có một mô típ như Sự tích Thôm Toòng (Ao Đồng) ở Phú Bình, Sự tích Ruộng Thác Đao (Dải lụa đào) ở Đại Từ…đến những mẫu kể chuỗi xích liên hoàn như Tua Tềnh và Tua Nhì (kiểu Tấm Cám) ở Định Hóa.
Trong đó, yếu tố giao thoa văn hóa Kinh - Tày rất đậm nổi, nhưng vẫn không làm nhạt nhòa bản sắc tộc người. Bên cạnh một số cổ tích Kinh, có thể thấy cổ tích Tày - Nùng phong phú vào bậc nhất. Đóng góp quan trọng của bộ phận này vào kho tàng cổ tích Việt Nam là ở sự nảy nở vô số các mẫu kể cổ tích loài vật. Đó là những mẫu kể còn khêu gợi không khí hoang sơ, thôn dã mà kỳ thú (Sự tích thi gào to, Sự tích giống ếch lưng gù). Ở thể loại này, còn thấy các tộc người có số dân không quá mười ngàn người như Cao Lan, Sán Chí…cũng có những mẫu kể đặc sắc. Hầu hết trong số này là sự tích về người mồ côi và người đội lốt.
Bên cạnh đó loại hình tự sự dân gian trong kho tàng văn học dân gian Thái Nguyên ít nhiều vẫn có sự tồn tại của các thể loại khác:
Truyện ngụ ngôn và truyện cười Thái Nguyên còn ít hơn các thể loại khác về số lượng và chưa hoàn thiện để đạt đến chất lượng ở đỉnh cao. Điều đó có lý do lịch sử - xã hội. Cư dân bản địa - chủ thể Thái Nguyên là người Tày nói chung không sở trường lối tư duy triết lý trừu tượng. Mặt khác, đa số các vùng văn hóa Thái Nguyên trước cách mạng tháng Tám mới bước vào hình thái xã hội phong kiến sơ kỳ. Kiểu truyện cười khôi hài một cách trí tuệ, theo lối trào lộng chữ nghĩa bằng tiếng Tày - Nùng là xuất sắc hơn cả, nhưng cũng còn ít được phổ biến.
Truyện thơ Thái Nguyên khá phong phú. Một truyện thơ Tày - Nùng được sưu tập chủ yếu ở Cao Bằng hiện nay cũng thấy có ở Thái Nguyên. Nội dung chủ đạo trong thể loại này nổi bật hai vấn đề: bi kịch tình yêu và khát
vọng anh hùng chống ngoại xâm. Truyện thơ H'mông - Dao còn đậm màu sắc thơ ca nghi lễ, tình huống cốt truyện khá đơn giản nhưng nội dung đáng được chú ý đặc biệt. Từ vùng Chợ Mới (Phú Lương) đến Phổ Yên, các truyện nôm khuyết danh của người Kinh khá phong phú. Chỉ riêng ở vùng Đèo Vai cách Chợ Mới không xa, người Tày đọc Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa bằng tiếng Kinh như của chính tộc người mình. Ở đây có nguyên nhân từ sự hòa nhập nhân chủng tộc người.
1.3.1.2. Loại hình trữ tình dân gian
Bên cạnh loại hình tự sự dân gian, loại hình trữ tình dân gian Thái Nguyên cũng được quan tâm.
Thể loại bao trùm loại hình trữ tình dân gian là ca dao. Ca dao hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các thể loại hát dân ca trong đời sống dân gian các dân tộc Thái Nguyên: gầu plênh (hát giao duyên), gầu xống (hát cưới xin), gầu tú dua (hát mồ côi), gầu tuờ (hát cúng ma)…của người H'mông ở Đồng Hỷ, phong slư (thơ tình yêu dân gian), sli lượn (hát trữ tình) của người Tày - Nùng ở Võ Nhai.
Hàng loạt bài sli lượn Thái Nguyên cho thấy sự giao thoa mạnh mẽ giữa hai nền văn hóa Kinh - Tày, từ địa danh, ngôn ngữ đến cung cách phô diễn tình cảm. Đặc điểm này nổi đậm trong thể tài ca dao sinh hoạt. Không thể không dẫn một vài câu như:
Gái xuống tắm tinh thông canh cửi Tiếng lượn ngọt hơn mật với đường Hình dong sáng hơn "gương thần diệu"
Ăn mặc những "yểu điệu thướt tha"
Xinh gái bằng "Ngọc Hoa công chúa"
Anh làm trai khách khứa xin mừng.
(Lượn mừng trong mục Lượn mỏ nước - theo Vi Hồng)
Có thể nhận ra các tiếng phổ thông ở đoạn trên được dùng nguyên văn trong bài hát Tày. Về các yếu tố thiết kế âm nhạc, còn có thể nhận ra những nét có dáng dấp hát chầu văn (Nam Hà), hát quan họ (Bắc Ninh).
Ở các vùng Đại Từ, Phú Bình, Phổ Yên cho thấy đặc biệt phong phú ca dao sinh hoạt bằng tiếng phổ thông. Đó là những bài ca cầm tay, những bài hát mừng quê hương mới, cuộc sống mới trên những vùng "đất lành chim đậu".
Quê Ngâu thì ở Hà Đông Ngâu đi lấy chồng ở đất Hà Tây
Gặp mình ta lại cầm tay…
(Ca dao cầm tay - Phú Bình)
Đó là những khúc hát ngắn, trữ tình duyên dáng, thường được diễn xướng trong hình thức đối đáp trên ruộng đồng gò bãi khắp các vùng bán sơn địa xứ Thái.
Ca dao lao động với chức năng tổ chức lao động giản đơn ở Thái Nguyên không nhiều, và chỉ còn dấu ấn trong các bài hát vui chơi của trẻ em các dân tộc.
1.3.1.3. Loại hình trung gian
Loại hình trung gian trong văn học dân gian Thái Nguyên khá độc đáo bởi nó mang màu sắc riêng của dân tộc, không dễ gì trộn lẫn với những nét nghệ thuật khác.
Tục ngữ Thái Nguyên có đủ các nhánh, nếu xem xét nó trong sắc thái nghệ thuật biểu diễn của các dân tộc anh em: tục ngữ Tày - Nùng, tục ngữ H'mông - Dao, tục ngữ Sán Dìu, tục ngữ Cao Lan, Sán Chí…Ở thể loại này, có thể thấy rõ những giá trị đặc sắc trong ngôn ngữ văn hóa đặc thù. Ngạn ngữ, phương ngôn Thái Nguyên không nhiều. Tuy nhiên, chỉ tìm hiểu một số bài ngắn trên đất Phú Lương, Võ Nhai cũng đã thấy nội dung chủ đạo của
nó là ngợi ca những miền quê giàu về sản vật, đẹp về tình người trong kỷ niệm thôn dã.
Các loại hát mo hát pụt, loàn, mại xe, phuối rọi, ngũ luận ngôn, tông nặc… còn ít được nghiên cứu từ nguyên dạng trong đời sống văn nghệ Thái Nguyên.
Văn học dân gian Thái Nguyên là kho báu trí tuệ, tâm hồn, tình cảm thẩm mỹ cao đẹp và phong phú của nhân dân các dân tộc Thái Nguyên. Trước hết, nó biểu hiện sự tích tụ văn minh Thái Nguyên ngàn năm trên các vùng đất cổ, trong khu vực lan tỏa của nền văn hóa Thần Sa. Màu sắc tiếp xúc và hội tụ của văn học dân gian Thái Nguyên rất đậm nổi. Nhưng đó là những giá trị hợp lưu văn hóa được lắng kết muộn màng, cùng với quá trình du cư của đồng bào các dân tộc ít người theo sự chuyển dịch dần các vùng rừng rậm rạp lên phía Bắc, kéo theo sự đan xen ngày một gia tăng của dân tộc người Kinh, mà một bộ phận đã Tày hóa. Sự thay đổi môi trường sinh thái do những tác động quy luật xã hội đương nhiên đã tác động mạnh mẽ vào đời sống văn học dân gian. Hoàn toàn có thể khẳng định văn học dân gian Thái Nguyên là một nguồn mạch tạo dựng nền văn học Việt Nam thống nhất trong đa dạng.