LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT

Một phần của tài liệu Đồ án tốt nghiệp: NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT, ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG DẦU KHÍ VÀ THIẾT KẾ GIẾNG KHOAN TÌM KIẾM TRÊN CẤU GT1X BỂ CỬU LONG (Trang 33 - 37)

2.1.Lịch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí

Lịch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí bể Cửu Long gắn liền với lịch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí của thềm lục địa Nam Việt Nam. Công tác khảo sát địa vật lý tại bể đã được tiến hành từ thập niên 70, cho đến nay đã phát hiện, thăm dò và đưa vào khai thác rất nhiều mỏ lớn như Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen….

Căn cứ vào quy mô, mốc lịch sử và kết quả thăm dò, lịch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí của bể Cửu Long được chia thành 4 giai đoạn:

2.1.1.Giai đoạn trước năm 1975

Đây là khoảng thời gian đầu tiên thực hiện các công tác khảo sát địa vật lý khu vực như từ, trọng lực và địa chấn để phân chia các lô, chuẩn bị cho công tác đấu thầu, ký các hợp đồng dầu khí.

Năm 1967, US Nauy Oceanographic Office đã tiến hành khảo sát từ hang không gần như khắp lãnh thổ Miền Nam. Năm 1967 – 1968, hai tàu Ruth và Maria của Alpine Geophysical Corporation đã tiến hành đo 19.500 km tuyến địa chấn ở phía Nam Biển Đông trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.

Năm 1969, công ty Ray Geophysical Mandrel đã tiến hành đo địa vật lý biển bằng tàu N.V.Robray I ở vùng thềm lục địa Miền Nam và vùng phía Nam của Biển Đông với tổng số 3.482 km tuyến trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.

Trong năm 1969 US Nauy Oceanographic cũng tiến hành đo song song 20.000 km tuyến địa chấn bằng 2 tàu P/V E.V Hunt ở vịnh Thái Lan và phía Nam Biển Đông, trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.

Đầu năm 1970, công ty Ray Geophysical Mandrel lại tiến hành đo đợt hai ở Nam Biển Đông và dọc bờ biển 8.639 km, đảm bảo mạng lưới cỡ 30 km x 50km, kết hợp giữa các phương pháp từ, trọng lực và hang không, trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long. Năm 1973-1974 đã đấu thầu trên 11 lô, trong đó có 3 lô thuộc bể Cửu Long là 09, 15 và 16.

Năm 1974, công ty Mobil trúng thầu trên lô 09 đã tiến hành khảo sát địa vật lý, chủ yếu là địa chấn phản xạ, từ và trọng lực, với khối lượng là 3.000 km tuyến.

Vào cuối năm 1974 và đầu năm 1975 công ty Mobil đã khoan giếng khoan tìm kiếm đầu tiên trong bể Cửu Long BH-1X, nằm ở phần đỉnh của cấu tạo Bạch Hổ. kết quả thử vỉa đối tượng cát kết Mioxen dưới ở chiều sâu 2.755- 2.819 m đã cho dòng dầu công nghiệp, lưu lượng dầu đạt 342 m3/ngày. Kết quả này đã khẳng định triển vọng và tiềm năng dầu khí của bể Cửu Long.

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1976 – 1979

Năm 1976, công ty địa vật lý CGG của Pháp khảo sát 1.210,9 km tuyến

địa chấn 2D dọc theo các con sông của đồng bằng song Cửu Long và vùng ven biển Vũng Tàu – Côn Sơn. Kết quả của công tác khảo sát địa chấn đã xây dựng được các tầng phản xạ chính: từ CL20 đến CL80 và khẳng định sự tồn tại của bể Cửu Long với một mặt cắt trầm tích Đệ Tam dày.

Năm 1978 công ty Geocco (Na Uy) thu nổ địa chấn 2D trên lô 10, 09, 16, 19, 20, 21 với tổng số 11.898,5 km và làm chi tiết trên cấu tạo Bạch Hổ với mạng lưới tuyến 2 x 2 km và 1 x 1 km. riêng đối với lô 15, công ty Deminex đã hợp đồng với Gecco khảo sát 3.221,7 km tuyến địa chấn với mạng lười 3,5 x 3,5 km trên lô 15 và cấu tạo Cửu Long(nay là Rạng Đông). Căn cứ vào kết quả minh giải tài liệu địa chấn này Deminex đã khoan 4 giếng khoan tìm kiếm trên các cấu tạo triển vọng nhất Trà Tân (15-A-1X), Sông Ba (15-B-1X), Cửu Long (15-C-1X) và Đồng Nai(15-G-1X). kết quả khoan các giếng này đều gặp các biểu hiện dầu khí trong cát kết tuổi Miocen sớm và Oligocen, nhưng dòng dầu khí không có ý nghĩa công nghiệp.

2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 – 1988

Công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam trong giai đoạn này được triển khai rộng khắp, nhưng tập trung chủ yếu vào một đơn vị, đó là Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro. Năm 1980 tàu nghiên cứu POISK đã tiến hành khảo sát 4057 km tuyến địa chấn điểm sâu chung, từ và 3250 km tuyến trọng lực. kết quả của đợt khảo sát này đã phân chia ra được tập địa chấn B (CL4 – 1, CL4 – 2), C (CL5 – 1), E(CL5 – 3) và F (CL6 – 2), đã xây dựng được một số sơ đồ cấu tạo dị thường từ và trọng lực Bouguer.

Năm 1983 – 1984 tàu viện sĩ Gamburxev đã tiến hành khảo sát 4000km tuyến địa chấn để nghiên cứu phần sâu nhất của bể Cửu Long.

Trong thời gian này XNLD Vietsovpetro đã khoan 4 giếng trên các cấu tạo Bạch Hổ và Rồng: R – 1X, BH – 3X, BH – 4X, BH – 5X và TĐ – 1X trên cấu tạo Tam Đảo. Trừ TĐ – 1X tất cả các giếng còn lại đều phát hiện vỉa dầu công nghiệp từ các vỉa cát kết Miocen dưới và Oligocen.

Cuối giai đoạn 1980 – 1988 được đánh dấu bằng việc Vietsovprtro đã khai thác những tấn dầu từ hai đối tượng khai thác Miocen, Oligocen dưới của

mỏ Bạch Hổ vào năm 1986 và phát hiện dầu trong móng nứt nẻ vào tháng 9 năm 1988.

2.1.4. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay

Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở bể Cửu Long. Với sự ra đời của luật đầu từ nước ngoài và luật dầu khí, hàng loạt công ty dầu khí nước ngoài đã ký hợp đồng phân chia sản phẩm hoặc cùng đầu tư vào các lô mở và có triển vọng ở bể Cửu Long. Đến năm cuối 2003 đã có 9 hợp đồng được ký kết trên các lô: 09-1, 09-2, 09-3, 10&02, 01&02/96, 15-1, 15-2, 16-1, 16-2 và 17.

Triển khai các hợp đồng đã ký về công tác khảo sát địa vật lý thăm dò, các công ty dầu khí đã ký hợp đồng với các công ty dịch vụ khảo sát địa chấn có nhiều kinh nghiệm trên thế giới như: CGG, Gecco – Prakla, Western Geophysical Company, PGS,…hầu hết các lô trong bể đã đạt được khảo sát địa chấn tỉ mỉ không chỉ phục vụ cho công tác thăm dò mà cả cho công tác chính xác mô hình vỉa chứa. Khối lượng khảo sát địa chấn trong giai đoạn này, 2D là 21408km và 3D là 7340,6km2. Khảo sát địa chấn 3D được tiến hành trên hầu hết các diện tích có triển vọng và trên tất cả các vùng mỏ đã phát hiện. cho đến hết năm 2003, tổng số giếng khoan thăm dò, thẩm lượng và khai thác đã khoan ở bể Cửu Long khoảng 300 giếng, trong đó riêng Vietsovpetro chiếm trên 70%.

Đặc trưng nổi bật của Việt Nam là sự hiện diện các mỏ dầu trong móng granitoit nứt nẻ trước Đệ tam, mà tiêu biểu là mỏ Bạch Hổ đã được phát hiện năm 1986 và đưa vào khai thác từ tháng 9 năm 1988. Sau Bạch Hổ đã phát hiện và đưa vào khai thác hàng loạt mỏ dầu khác trong móng ở bể Cửu Long như Đông Rồng, Đông Nam Rồng, Nam Rồng – Đồi Mồi, Phương Đông, mỏ Sư Tử Đen, mỏ Sư Tử Vàng, mỏ Rạng Đông, mỏ Cá Ngừ Vàng, mỏ Sư Tử Nâu, mỏ Thăng Long, mỏ Hải Sư Đen, mỏ Hổ Xám…với trữ lượng dầu và sản lượng dầu khai thác, tính đến 01/01/2012, chiếm trên 80% tổng trữ lượng dầu đã xác minh và tổng sản lượng dầu đã khai thác của Việt Nam.

2.2. Lịch sử tìm kiếm thăm dò cấu tạo GT, lô 09-1

Trên cơ sở kết quả minh giải tài liệu địa chấn 3D của Viện Dầu khí Việt Nam thực hiện năm 2009, đã phát hiện cấu tạo triển vọng GT tại khu vực phía Đông Nam bể Cửu Long (phía Nam mỏ Bạch Hổ)

Kết quả nghiên cứu cấu trúc địa chất cấu tạo GT đã chỉ ra sự tương đồng với vòm Nam mỏ Bạch Hổ về cấu-kiến tạo cũng như về môi trường lắng đọng trầm tích và thành tạo đá.

Giếng khoan nghiêng GT-1Х được bắt đầu khoan vào ngày 24.11.2010 bằng giàn tự nõng ôМurmanskaiaằ nhằm mục đớch tỡm kiếm cỏc thõn dầu khớ trong trầm tích lục nguyên và trong móng của cấu tạo GT với đáy thiết kế là 4837 m. Khi đạt độ sâu 4110 m đã xảy ra sự cố khoan do bị rơi dụng cụ khoan, vì vậy đã phải tiến hành khoan cắt thân mới từ độ sâu 3838 m. Giếng khoan kết thúc ngày 05.06.2011 với đáy giếng khoan thực tế là 4990 m (CSTĐ 4803 m).

Kết quả thử vỉa giếng này đã thu được dòng dầu tự phun từ trầm tích Mioxen dưới.

PHẦN 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT LÔ 09-1

Một phần của tài liệu Đồ án tốt nghiệp: NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT, ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG DẦU KHÍ VÀ THIẾT KẾ GIẾNG KHOAN TÌM KIẾM TRÊN CẤU GT1X BỂ CỬU LONG (Trang 33 - 37)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(121 trang)
w