Tăng trưởng tín dụng đã giảm mạnh từ năm 2011 đến năm 2012 do chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát, thanh khoản của một số NHTMCP gặp khó khăn và một số TCTD chưa chấp hành nghiêm các quy định lãi suất huy động tối đa của NHNN nên được giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng thấp.
Diễn biến tăng trưởng tín dụng trong những năm gần đây chủ yếu là tăng vọt những tháng cuối năm, tăng chậm thậm chí giảm trong những tháng đầu năm.
Nhìn chung, sau khi giảm mạnh vào năm 2012, tốc độ tăng trưởng đã dần được khôi phục, lên mức 12-14%/ năm phù hợp với mục tiêu đề ra của NHNN.
Đáng chú ý là tăng trưởng tín dụng tốt ngay từ những tháng đầu năm 2015. Tháng 4.2015, tăng trưởng tín dụng đạt 2,78%, là mức cao nhất trong 3 năm gần đây (năm 2013 và năm 2014 tương ứng là 1,04% và 0,53%). Đây là một tín hiệu khả quan cho thấy tăng trưởng tín dụng khơng cịn bị dồn áp lực vào những tháng cuối năm. Dòng tín dụng cũng có xu hướng phân bổ tốt hơn vào những ngành và khu vực ưu tiên.
2.1.2.3. Tình hình nợ xấu
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ giai đoạn 2011-20142
Đơn vị: %
Nguồn: Tổng cục thống kê
Từ biểu đồ trên, có thể thấy tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tăng nhanh trong giai đoạn 2009-2012. Nguyên nhân là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008, để kiềm chế lạm phát và những bất ổn vĩ mơ, các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ được điều hành theo hướng thắt chặt, đã có tác động mạnh tới lạm phát và sức cầu của nền kinh tế. Đặc biệt là tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (DN), ngân hàng. Đối với khơng ít DN, vốn cho sản xuất kinh doanh chủ yếu vay ngân hàng, trong khi lãi suất cho vay của các ngân hàng luôn ở mức cao (18%- 25% vào năm 2010, 2011). Với lãi suất vay cao, thị trường đầu ra cho sản bị thu hẹp do nhiều nguyên nhân, hàng tồn kho tăng cao, nhiều DN rơi vào tình trạng khó khăn. Mỗi năm có khoảng vài chục ngàn DN giải thể, dừng hoạt động - điều này ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng, tương ứng với việc nợ xấu giữa DN với ngân hàng ngày càng cao.
Tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống tại thời điểm cuối tháng 9 là 5,4% và đến cuối năm 2014 còn khoảng 3,8% (theo báo cáo của NHNN còn theo CIC là 5,3%). Tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh ở thời điểm cuối quý 2 do các ngân hàng dần triển khai phân loại nợ chặt chẽ hơn theo quy định tại Thơng tư 02 và 09, kết quả là nợ có khả năng mất vốn tăng trung bình 37% trong 6 tháng đầu năm và chiếm 40%-70% cơ cấu nợ xấu. Chỉ sau khi đẩy mạnh việc sử dụng nguồn dự phòng rủi ro xử lý nợ xấu và bán nợ cho VAMC, tỷ lệ nợ xấu của phần lớn các ngân hàng mới giảm trong quý 3 và quý 4.
Năm 2014, mặc dù nền kinh tế có nhiều biểu hiện được phục hồi, nhiều chính sách và biện pháp hỗ trợ DN đã được triển khai, thị trường tài chính có một số chuyển biến tích cực nhưng số DN giải thể, dừng hoạt động vẫn cao. Đáng chú ý, một số DN có quy mơ trung bình và lớn tuy đã cố gắng cầm cự trong giai đoạn khó khăn. Có thể nói tình hình hoạt động ngành ngân hàng hiện nay đã được cải thiện đáng kể cả về mức độ an tồn vốn, quy mơ vốn, kết quả hoạt động kinh doanh... so với giai đoạn từ 2008 đến cuối 2011 - khi nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng phải đối mặt với những hệ lụy từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ cuối 2008. Những điều này một phần là nhờ quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đồng bộ với lộ trình, mục tiêu rõ ràng và quyết tâm tái cơ cấu của cả hệ thống - điều tất yếu phải thực hiện để hồi sinh và phát triển bền vừng hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam.
2.2. Thực trạng tái cơ cấu hệ thống NHTMVN 2.2.1. Cơ sở pháp lý
2.2.1.1. Đề án 254/QĐ-TTg
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011 - 2015” nhằm phát triển hệ thống các TCTD đa năng, hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mơ, loại hình có khả năng cạnh tranh hơn.
Mục tiêu trước mắt đến năm 2015, cần tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các TCTD; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các TCTD; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng; phấn đấu đến cuối năm 2015, hình thành được ít nhất 01 - 02 ngân hàng thương mại có trình độ tương được với các ngân hàng trong khu vực.
Lộ trình thực hiện được đề ra trong Đề án giai đoạn 2011 - 2012 chủ yếu tập trung vào việc đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng; tiến hành đánh giá và phân loại tổ chức tín dụng. Bên cạnh
đó, trong giai đoạn này Đề án cũng chú trọng vào việc xây dựng và triển khai phương án cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém và tổ chức tín dụng khác; tập trung hỗ trợ thanh khoản để đảm bảo khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng. Ngồi ra, Đề án còn hướng tới việc triển khai sáp nhập, hợp nhất mua lại tổ chức tín dụng; tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; cơ cấu lại hoạt động và hệ thống quản trị.
Chính phủ khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD theo nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan theo quy định của pháp luật; khơng để xảy ra đổ vỡ và mất an tồn hoạt động ngân hàng ngồi tầm kiểm sốt của Nhà nước.
2.2.1.2. Quyết định 734/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015
Từ quý IV/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ngoài việc tập trung nghiên cứu, xây dựng Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) thì đã triển khai các biện pháp giảm thiểu rủi ro, bảo đảm an tồn cho hệ thống thơng qua việc triển khai cơ cấu ngay một số ngân hàng yếu kém cần ưu tiên tập trung xử lý. Ngay sau khi Đề án được phê duyệt, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 734/QĐ- NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng triển khai thực hiện Đề án. Quyết định này đã phân công rõ ràng nhiệm vụ của từng đơn vị theo các lộ trình cụ thể và triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp để tiến hành cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng phù hợp với mục tiêu, định hướng và lộ trình nêu tại Đề án. Khơng để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngồi tầm kiểm sốt của Nhà nước là một trong những quan điểm nhất quán của Chính phủ và NHNN trong việc cơ cấu. Quá trình chấn chỉnh, củng cố và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng hạn chế tới mức thấp nhất tổn thất và chi phí của ngân sách nhà nước cho xử lý những vấn đề của hệ thống các tổ chức tín dụng.
2.2.1.3. Quyết định 363/QĐ-TTg thành lập Ban chỉ đạo liên ngành triển khai đề án “cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định 363/QĐ-TTg ngày 11/3/2014 thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành triển khai Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” và Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng”. Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh làm Trưởng Ban Chỉ đạo. Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình.
Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ tham mưu giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo triển khai các giải pháp cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng theo các mục tiêu, định hướng nêu tại Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” và Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng”; nghiên
Năm 2011 2012 2013 2014
Tỷ lệ nợ xấucứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ phương hướng, giải pháp xử lý những vấn đề2,34 4,67% 3,48 3,32
quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện các Đề án; tham mưu, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương xử lý các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành và địa phương trong phạm vi các Đề án.
Đồng thời, Ban Chỉ đạo cũng tham mưu, giúp Thủ tướng Chính phủ điều hịa, phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương, đồng thời tăng cường trách nhiệm, sự tham gia, phối hợp của các Bộ, ngành và địa phương trong quá trình triển khai thực hiện các Đề án; thực hiện các nhiệm vụ khác theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng.
2.2.2. Thực trạng tái cơ cấu tại các NHTMVN
NHNN đã chủ động đánh giá, phân tích và triển khai xử lý ngay một số TCTD yếu kém trên cơ sở triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp. Đó là việc thành lập các tổ giám sát tại các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) yếu kém với sự tham gia của cán bộ NHNN và một số NHTM Nhà nước để theo dõi, giám sát chặt chẽ, tồn diện các ngân hàng này. Bên cạnh đó NHNN đã chỉ đạo một số NHTM Nhà nước hỗ trợ thanh khoản và sẵn sàng tham gia cơ cấu lại các NHTMCP yếu kém trong trường hợp các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại trên cơ sở tự nguyện khơng thể thực hiện được. Ngồi ra, NHNN cịn th cơng ty kiểm tốn quốc tế thực hiện kiểm toán các ngân hàng, đồng thời NHNN tiến hành thanh tra toàn diện các NHTMCP yếu kém. Căn cứ kết quả thanh tra, kiểm toán, NHNN đã yêu cầu các ngân hàng này xây dựng phương án cơ cấu lại.
Năm 2011, Chính phủ phê duyệt đề án tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng (giai đoạn 2011-2015), danh sách 9 ngân hàng phải tái cơ cấu, gồm: HabuBank, SCB, TinNghiaBank, FicomBank, TPBank, TrustBank, NaviBank, WesternBank và GPBank.
Tính đến hiện tại, Ngân hàng Sài Gịn (SCB), Ngân hàng Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Ngân hàng Đệ Nhất (FicomBank) đã hợp nhất và kết quả hoạt động của năm 2014 được đánh giá là khá khả quan. Ngân hàng Nam Việt (NaviBank), sau khi tự cơ cấu lại đã đổi tên thành Ngân hàng Quốc dân (NCB). Tương tự, Ngân hàng Tiên Phong (TienPhongBank) và Đại Tín (TrustBank) cũng chọn cách tự tái cơ cấu thông qua việc tăng mạnh vốn điều lệ từ các cổ đơng. Ngồi ra, Ngân hàng nhà Hà Nội (HabuBank) đã sáp nhập vào Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Bên cạnh đó, Ngân hàng Phương Tây (WesternBank) cũng đã tiến hành hợp nhất với Tổng cơng ty tài chính cổ phần dầu khí (PVFC).
Trong số 9 tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước đưa vào danh sách tái cơ cấu đợt 1, hiện chỉ cịn Ngân hàng Dầu khí Tồn cầu (GPBank) là chưa cụ thể
thơng tin. Theo đó, GPBank sẽ bán 100% cổ phần cho một đối tác nước ngoài và đang trong quá trình hồn tất thủ tục.
Ke từ năm 2015, hệ thống tổ chức tín dụng sẽ bước vào giai đoạn 2 của quá trình sắp xếp và tái cơ cấu, trong đó nửa đầu năm 2015 được xác định là thời gian cao điểm và tất cả các ngân hàng lớn phải vào cuộc - xem như nhiệm vụ phải làm. Các ngân hàng lớn, như: Vietcombank, BIDV hay Vietinbank phải tham gia sáp nhập với các ngân hàng có quy mơ nhỏ hơn để vừa hỗ trợ, vừa tăng quy mô và “kéo” nhau cùng phát triển.
Sau khi sáp nhập, hợp nhất hoặc phương án cơ cấu lại được NHNN chấp thuận, các NH đã và đang tích cực triển khai các giải pháp cơ cấu lại tồn diện về tài chính, hoạt động, quản trị và khắc phục các sai phạm dưới sự giám sát của NHNN.
Trước mắt, những thương vụ sáp nhập hoặc mua bán theo hình thức khuyến khích hoặc tự nguyện tham gia được thị trường quan tâm có thể kể đến, như: thương vụ sáp nhập Ngân hàng Phương Nam vào SacomBank; tái cơ cấu Ngân hàng Xây dựng (VNCB); sáp nhập Ngân hàng Đại Dương (OceanBank) với một ngân hàng lớn; sáp nhập vài ngân hàng nhỏ với Vietcombank và BIDV...
Từ quyết tâm cải tổ hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, dự kiến thị trường năm 2015 có nhiều thương vụ mua bán - sáp nhập (M&A) hoặc tự cơ cấu sơi động và nhiều biến đổi.
Cụ thể, q trình tái cơ cấu với các NHTM như sau:
2.2.2.1. Tái cơ cấu tài chính a) Xử lý nợ xấu:
Nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng khơng hồn hảo từ đó gây nên sự đổ vỡ lịng tin. Nợ xấu ln song hành cùng hoạt động tín dụng theo mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro. Vì vậy, khi đưa ra một món cho vay thì ngân hàng đã phải xác định nguy cơ phát sinh nợ xấu. Theo chuẩn mực quốc tế hiện nay thì tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận được là dưới 5%, nếu nợ xấu ở mức độ cao sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với NHTM và nếu xảy ra trên diện rộng có thể dẫn đến khủng hoảng cho nền kinh tế.
Bảng 2.8. Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng trong nhóm tái cơ cấu giai đoạn 2011-2014
So với 2011, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng trong nhóm được tái cơ cấu tăng lên gấp đối trong năm 2012. Trước khi tái cơ cấu, các ngân hàng được sáp nhập vào SHB và SCB đều là những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu ở mức báo động. Do vậy sau khi diễn ra các thương vụ mua bán, sáp nhập vào cuối năm 2011 và 2012, tỷ lệ nợ xấu của SHB và SCB tăng lên đáng kể. Tuy nhiên sang năm 2014, các ngân hàng hậu sáp nhập đã cơ cấu lại tổ chức, xử lý nợ xấu thành cơng, khiến tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng này giảm xuống chỉ cịn 3,32%, tức là giảm 1,19% so với năm 2012.
Bên cạnh đó, ngày 31/5/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 843/QĐ-TTg phê duyệt 02 Đề án thành lập Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC). Ngoài ra, để triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp xử lý nợ xấu quy định tại Quyết định số 843, gắn với các giải pháp tổng thể cơ cấu lại hệ thống các TCTD theo Đề án 254, NHNN đã trình và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 363/QĐ-TTg ngày 11/3/2014 về việc thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành triển khai Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” và Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD”.
Đến nay, các ngân hàng thương mại đã ban hành và gửi NHNN kế hoạch xử lý nợ xấu đến 2015; đồng thời, các TCTD đã và đang tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp xử lý nợ xấu trong khả năng tài chính của mình, song song với việc hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh của các khách hàng. Về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC, mặc dù mới được thành lập và đi vào hoạt động với nhiều khó khăn, cịn thiếu thốn về điều kiện cơ sở vật chất nhưng kết quả đạt được bước đầu của VAMC có vai trị quan trọng và tạo nền tảng cho việc đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu trong thời gian tới, đặc biệt là tạo được niềm tin về tính khả thi của một cơng cụ xử lý nợ xấu rất đặc thù. Tính đến hết tháng cuối năm 2014, VAMC báo cáo đã mua được