nay.
Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu thấy được vai trò to lớn của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội cụ thể thực trạng sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, cần phải có các giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất
nhằm phát huy được mọi mặt của lực lượng sản xuất một cách triệt để và có lợi nhất.
Muốn phát triển lực lượng sản xuất thì trước hết phải chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm huy động vốn đầu tư phát triển lực lượng sản xuất, sau đó nâng cao trình độ người lao động, trình độ cơng cụ lao động kết hợp với trình độ tổ chức, quản lí trao đổi lao động, vận dụng khoa học vào sản xuất.
3.1. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta không chỉ là một tất yếu khách quan mà cịn có vai trị to lớn. Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất, sẽ phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Sự
phù hợp này cịn có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế.
3.2. Phát triển người lao động – phát triển nguồn lực chất lượng.
Bắt đầu từ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về mọi mặt: sức khỏe cao, trình độ dân trí, trí thức, tay nghề, tác phong cơng nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, tính kỷ luật, chấp hành luật pháp đồng thời phải tập trung vào đào tạo để tăng nhanh bộ phận lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao. Vấn đề cơ bản có tính chiến lược ở đây là phải tăng nhanh về số lượng để nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo để đảm bảo cơ cấu đào tạo hợp lí giữa đại học, cao đẳng trở lên so với trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề.
“ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Cân phải tuyên truyền cho mọi người dân thấy được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp chung của đất nước mà quan tâm đến lĩnh vực này. Để đào tạo những cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” có ý thức năng lực làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, cần phải có sự đổi mới nội
dung và phương pháp giáo dục. Phải tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy và học. Phương pháp dạy phải kích thích được tính sáng tạo, sự hăng say tìm tịi nghiên cứu của người học. Phương pháp học phải độc lập tự chủ, biết vận dụng kiến thức đã học vào giải thích và giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra.
Khuyến khích các doanh nghiệp, thày giáo, người học trong lĩnh vực đào tạo nghề chính quy, đào tạo lao động lành nghề và lao động có trình độ cao, có hình thức tơn vinh danh hiệu vinh dự nhà nước phong cho họ.
Đảm bảo sử dụng lao động qua đào tạo đúng ngành nghề được đào tạo, cần có chính sách tiền lương, phụ cấp, bồi dưỡng vật chất cho người lao động, ngoài một số ngành cơng nghệ cao ngồi tiền lương phải có chế độ đãi ngộ khác hoặc có chính sách tuyển dụng từ khi tuyển sinh giúp cho người lao động có động lực để làm việc hiệu quả hơn. Xây dựng hệ thống các trường đào tạo trọng điểm.
Mở rộng hợp tác quốc tế, có thể đưa người lao động Việt Nam sang các nước phát triển để học hỏi kinh nghiệm, đào tạo nghề sau đó về áp dụng cho kỹ thuật trong nước.
3.3. Phát triển khoa học công - nghệ.
Xây dựng các chiến lược phát triển khoa học công nghệ vừa phù hợp với thực tiễn đất nước, vừa tranh thủ những bước đột phá hội nhập với tiến trình phát triển của khoa học công nghệ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới trong nền kinh tế tri thức.
Mở rộng hợp tác khu vực và thế giới, đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, nhất là việc chuyển giao công nghệ, đồng thời chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia và thợ kỹ thuật cao để có thể vận hành, khai thác có hiệu quả các thiết bị cơng nghệ trong sản xuất.
KẾT LUẬN
Tóm lại, lực lượng sản xuất có vai trị to lớn trong đời sống xã hội. Về lượng, nó tạo ra của cải vật chất cho xã hội, về chất thì như trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, Các-Mác đã nêu tư tưởng quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội. Ông viết: “Quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, lồi người thay đổi phương thức sản xuất mới của mình, và do đó thay đổi phương thức sản xuất, cách sống của mình, lồi người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng
tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản chủ nghĩa”.
Do hạn chế về mặt kiến thức nên bài tiểu luận chỉ dừng lại việc xét một cách khái quát vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội và vận dụng trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Mong được sự đóng góp của thầy cơ và các bạn.