3. Tổ chức đô thị
3.2. thị Việt Nam trong quan hệ với nông thôn
Đô thị Việt Nam được sao phỏng theo tổ chức nơng thơn với tính cộng đồng và tính tự trị rõ nét.
Phường vốn là cộng đồng của những người làm cùng một nghề của một làng q; vì những lí do khác nhau, họ đã tách ra một bộ phận vào thành phố làm ăn, dựng nhà trên cùng một dãy phố, phía trong sản xuất, phía ngồi bán hàng. Lối tổ chức đô thị theo phường làm cho đơ thị Việt Nam có một bộ mặt đặc biệt, khiến người châu Âu luôn ngỡ ngàng: Năm 1884, Julien viết: “Mỗi loại hàng hóa đều có một phố riêng. Ở phố Bát Sứ – tất cả đều xanh. Tiếp đến phố Bát Đàn – tất cả đều đỏ. Rồi đến phố Hàng Đồng lấp lánh ánh kim vàng chói. Phố Hàng Thêu và phố Hàng Tranh, màu sắc tươi vui sặc sỡ. Ngay bây giờ, khi
nền kinh tế thị trường đã ngự trị, điều “hình như vơ lí” đó vẫn tiếp tục tồn tại: các đơ thị Việt Nam vẫn tiếp tụ tự phát tổ chức theo lối phường. Chẳng hạn như ở thành phố Hố Chí Minh có đường Ngơ Gia Tự bán đồ gỗ, đường Tơ Hiến Thành bán vật liệu xây dựng, đường Lí Thái Tổ làm dịch vụ in ấn, đường Huỳnh Thúc Kháng bán đồ điện tử cao cấp.
Nguyên nhân nào giải thích hiện tượng này? Vẫn là tính cộng đồng và tính tự trị: Trước hết, do tính cộng đồng mà cách tổ chức theo phường tỏ ra có lợi cho người bán: họ có điều kiện tương trợ giúp đỡ nhau trong việc định giá, giữ giá, vay mượn hàng, giới thiệu khách hàng cho nhau… Không phải ngẫu nhiên mà tục ngữ có câu: “Bn có bạn, bán có phường”.
Chất nơng thơn của đơ thị Việt Nam cịn bộc lộ ở tính cộng đồng (tập thể) của nó. Cho đến tận những năm 80, ở các đô thị Việt Nam vẫn rất phổ biến lối kiến trúc khu tập thể, (miền Nam gọi là “chung cư”) – ở đó tất cả đều tập thể, cộng đồng y như trong một làng: bể nước tập thể, bếp tập thế, thùng rác tập thể, và cả nhà vệ sinh cũng tập thể; hành lang thì dài dằng dặc chung cho tất thảy mọi nhà. Mọi nhà trong chung cư (ít nhất là trong cùng một hành lang, cùng là một cầu thang) đều quen biết nhau, sống cộng đồng với nhau (trông nhà giúp nhau, cho quà nhau, thăm nom nhau,…) như bao đời nay vẫn sống ờ nông thôn. Chất nông thôn của đô thị Việt Nam cũng bộc lộ cả tính tự trị nữa. Các đơ thị đều có cổng như cổng làng, các phố nhỏ bên trong cũng vậy.(1)
Hậu quả sự chi phối của nông thơn đối với đơ thị là trong lịng các đơ thị, cho tới gần đây, thậm chí tận bây giờ, vẫn cịn sót lại những ốc đảo làng quê có lũy tre xanh, có tiếng gà kêu, chó sủa. Ở Hà Nội, ngay cạnh quảng trường Ba Đình vẫn cịn làng hoa Ngọc Hà, ngay gần cơng viên Lê nin có làng Kim Liên, chếch phía Tây thì có làng Láng nổi tiếng với nghề trống rau húng. Ở Tp. Hồ Chí Minh, rẽ khỏi những đường phố lớn đi vào ngõ hẻm, ta vẫn có thể thấy những cánh đồng nhỏ trồng rau. Ở Huế, cho đến tận bây giờ khơng chỉ có những thơn Vĩ Dạ thơ mộng, làng Phủ Cam làm nón,… mà cả thành phố vẫn cịn ngun đó chất nơng thơn: Người Huế tự hào khoe với du khách rằng đây là một “Thành phố nhà-vườn” – mỗi ngôi nhà được bao bọc bởi một khu vườn xanh tươi với những hàng cây cắt xén tươm tất – một hình ảnh rất điển hình của gia đình nơng thơn.