Chương 2 : ĐẶC TRƯNG DI TÍCH VÀ DI VẬT
2.4. Đặc trưng di vật
2.4.1.2.1. Công cụ đá ghè đẽo và đá có vết ghè
Cơng cụ đá ghè đẽo và đá có vết ghè là những loại hình khơng đặc trưng cho sưu tập cơng cụ đá nói chung ở Cồn Cổ Ngựa và trong lần khai quật năm 1979-1980, có loại hình này nhưng ít được nhắc đến.
Trong cuộc khai quật năm 2013, nhóm loại hình trên có tổng số 33 chiếc, với 16/33 di vật chất liệu là đá basalt hoặc basalt komatit. Những nguyên liệu còn lại gồm có đá
quartz, diabaz lục hóa và đá vơi với tỷ lệ khơng lớn [Bảng 3]. Nhóm loại hình cơng cụ đá ghè đẽo và đá có vết ghè được phân thành những kiểu gồm chopper rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, cơng cụ hai rìa, cơng cụ khơng định hình và đá có vết ghè [Bảng 3].
Cơng cụ rìa lưỡi dọc (ghè theo chiều dài hạch đá/cuội)
Cơng cụ rìa dọc phát hiện được ở cuộc khai quật 2013 chỉ có 2 chiếc, một ở L3.2: 19, chiếc còn lại ở mộ M28-109: 2. Cả hai hiện vật đều được chế tác từ hạch đá basalt, màu nâu vàng. Hiện vật được ghè khá nhiều, với hai lớp ghè trở lên. Kích thước của hai công cụ trên không lớn [Ảnh 70].
Công cụ ký hiệu 13.CCN.H1.L3.2: 19 được chế tác từ hạch đá basalt màu nâu đỏ vàng, xen lẫn những đám patine màu xám đen. Hiện vật được chế tác từ một hạch đá hình tứ giác. Phần rìa dọc bên có tiết diện mỏng hơn được sử dụng ghè tạo rìa tác dụng. Rìa bên đối diện cịn lại được sử dụng làm đốc cầm. Rìa tác dụng được ghè bởi 22 nhát ghè, bằng hai lớp ghè với những nhát ghè khá đều. Lớp ghè thứ nhất kích thước lớn hơn, vết âm bản để lại
43
khơng lõm sâu. Lớp ghè thứ hai kích thước nhỏ, chồng đè lên nhau, vết âm bản, hướng tia ghè còn rõ nhưng hơi khó phân biệt giới hạn các nhát ghè. Cơng năng của cơng cụ phù hợp với chức năng chặt. Kích thước: dài 7,60cm, rộng 10,50cm, dày 2,50cm, nặng 580gram, góc lưỡi dao động từ 470 tới 530 [Ảnh 71], [Bản vẽ 12.1].
Cơng cụ rìa lưỡi ngang (ghè theo chiều rộng của hạch đá/cuội)
Cũng giống như cơng cụ rìa lưỡi dọc, số lượng cơng cụ rìa lưỡi ngang có tỷ lệ khiêm tốn trong sưu tập di vật đá ở Cồn Cổ Ngựa. Trong 3 hiện vật, tất cả được chế tác với ba chất liệu khác nhau, gồm đá vơi, quartz và đá diabaz [Bảng 3]. Nhìn chung, cường độ ghè đẽo của những công cụ này không cao như cơng cụ rìa dọc. Số lượng các nhát ghè dao động từ 2 tới 7 nhát, diễn ra từ 1 tới 2 lớp ghè. Do số lượng quá ít nên việc khái quát về đặc trưng của nhóm cơng cụ này chưa đủ cơ sở.
Đối với công cụ được làm từ cuội quartz mang số hiệu 13.CCN.H1.L2.M88: 1, bề mặt khơng bị phong hóa, có vân cuội, màu đỏ vàng được dùng với cả hai công năng. Đầu được ghè tạo rìa tác dụng sử dụng để chặt, đầu cịn lại có khả năng được sử dụng để nghiền hoặc ghè do lớp vỏ cuội bị mất, lộ ra một diện sử dụng hình elip màu trắng vàng [Ảnh 72], [Bản vẽ 12.2].
Phác vật
Loại hình phác vật ở đây thuộc nhóm cơng cụ ghè đẽo. Tuy nhiên, những nghiên cứu trước đó, loại hình này khơng được nhắc đến [76]. Trong thơng báo năm 1982, Bùi Vinh có nêu ra một số lượng 12 hiện vật có dạng hình chữ U và cho nó là loại rìu mang những đặc điểm truyền thống của loại hình và kỹ thuật chế tạo rìu ngắn kiểu Hịa Bình. Nhưng đã có một số yếu tố thể hiện ở trình độ chế tác tiến bộ hơn.
Cuộc khai quật 2013, phát hiện 6 phác vật [Bảng 3]. Những phác vật này đa số được chế tác từ đá basalt, màu nâu xám, nâu vàng hoặc đỏ vàng, bề mặt cịn lưu lại vỏ đá bị phong hóa màu đỏ, đỏ vàng. Tất cả các phác vật ở đây đều được ghè đẽo nhiều nhát ghè, bằng kỹ thuật ghè đẽo hai mặt, có từ một đến hai lớp ghè. Mặc dù vậy, các phác vật có một mặt bóc đi hồn tồn lớp vỏ đá tự nhiên, mặt cịn lại vẫn giữ lại khơng ít thì nhiều tỷ lệ vỏ đá. Điều này cho thấy, cũng như những cơng cụ ghè đẽo rìa dọc, rìa ngang với nhóm loại hình này khả năng
44
ngun liệu được khai thác cùng một địa điểm. Người Cồn Cổ Ngựa vẫn lợi dụng điều kiện tốt của hạch đá để chế tác công cụ sao cho hiệu quả nhất và tiết kiệm thời gian nhất.
Về hình dáng, những phác vật ở đây có thể là những phác vật rìu. Duy nhất hiện vật mang ký hiệu L2.1.F10: 3 là một phác vật nguyên, được ghè tạo ở cả hai đầu tạo độ mỏng cần thiết, sau đó có thể nó sẽ được đập bẻ để trở thành hai phác vật nhỏ [Ảnh 74]. Dấu vết của kỹ thuật đập bẻ còn để lại ở đốc phác vật ký hiệu L2.1.F3: 4 hay L1: 4 [Ảnh 75], [Bản vẽ 12.6]. Tia ghè rõ, điểm đập bẻ không nằm ở giữa mà nằm ở 1/3 chu vi của mặt cắt ngang [Ảnh 74], [Bản vẽ 11.3]. Ngoại trừ hai phác vật có trọng lượng trên 500gram, những phác vật cịn lại chỉ nặng từ 60gram tới 125gram, góc lưỡi ghè tạo dao động từ 300 đến 450 [Ảnh 76-77], [Bản vẽ 12.5-12.6], [Bảng 3].
Nhóm cơng cụ khơng định hình và đá có vết ghè
Tương tự như nhóm cơng cụ ghè đẽo ở đây, đa số những hiện vật đá có vết ghè đều được chế tác, ghè từ đá basalt, diabaz lục hóa, cuội và đá quartz. Đặc điểm nổi bật của những hiện vật này là trên thân có một số nhát ghè nhưng khơng có tính quy luật hoặc đang trong q trình sơ chế để tạo ra các phơi, phác vật và công cụ. Cả hai cơng cụ khơng định này hình đã được sử dụng. Chính vì vậy, chúng tơi chỉ ghi nhận sự xuất hiện của nhóm di vật trên. Cơng cụ khơng định hình khơng đặc trưng cho nhóm loại hình cơng cụ, kỹ thuật chế tác đá ở Cồn Cổ Ngựa [Ảnh 78-81], [Bảng 3].