Sự thay đổi trong hạng mục mục tiêu đầu tư

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu lý thuyết hành vi trên thị trường chứng khoán việt nam , luận văn thạc sĩ (Trang 48 - 50)

3. Phương pháp nghiên cứu

2.2. Kết quả điều tra những nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức trên thị

2.2.2.2. Sự thay đổi trong hạng mục mục tiêu đầu tư

Để xem xét các nhà đầu tư có thay đổi mục tiêu đầu tư do hậu quả của bong

bóng đầu cơ hay không, các nhà đầu tư đã được hỏi để chọn hai điều quan trọng

nhất để mô tả việc đầu tư của họ (câu hỏi số 4 và 12). Các nhà đầu tư được chọn hai câu để chỉ ra danh mục mục tiêu đầu tư của họ trong thời kỳ bong bóng đầu cơ cũng như là sau đó. Kết quả cho thấy rằng 33% các nhà đầu tư cá nhân đầu tư chủ yếu ở các công ty Việt Nam và 26% ở các công ty cỡ lớn trong thời kỳ bong bóng đầu cơ. Các nhà đầu tư có tổ chức thì ngược lại, họ thích đầu tư vào các cơng ty lớn (24%) với điều thứ hai quan trọng hơn là họ chia đều giữa đầu tư vào các công ty Việt

Nam (19%) và các công ty rủi ro cao nhưng lợi tức lớn (19%). Danh mục đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân sau thời kỳ bong bóng đầu cơ khơng có sự thay đổi đáng kể vì 31% tiếp tục đầu tư vào các công ty Việt Nam và 28% ở các công ty cỡ lớn. Tuy nhiên, trong thời kỳ sau bong bóng đầu cơ tỷ lệ các nhà đầu tư cá nhân đầu tư vào các công ty rủi ro cao nhưng lợi tức lớn giảm từ 13% còn 6% trong khi tỷ lệ đầu tư vào các cơng ty an tồn nhưng lợi tức thấp tăng từ 18% đến 25%. Các nhà đầu tư cá nhân giảm cổ phần của họ ở những công ty rủi ro cao, lợi tức cao tương tự như các nhà đầu tư có tổ chức. Các nhà đầu tư có tổ chức tăng cổ phần của họ ở các công ty

cỡ lớn nhiều hơn, từ 24% lên 30%, và ở các công ty vừa và nhỏ, từ 19% lên 27% sau thời kỳ bong bóng đầu cơ. Các nhà đầu tư cá nhân tăng cổ phần của họ ở các cơng ty an tồn nhưng lợi tức thấp từ 18% đến 25%. Ngoài ra, tỷ lệ đầu tư vào các công ty rủi ro nhưng lợi tức cao rớt từ 19% cịn 13% sau thời kỳ bong bóng đầu cơ. Tỷ lệ đầu tư vào các công ty nhỏ sau thời kỳ bong bóng rớt từ 17% cịn 10%.

Các công ty lớn và các công ty Việt Nam vẫn thống trị hầu hết các danh mục

đầu tư mặc dù sau vụ thị trường suy thoái. Điều này cũng xảy ra tương tự với sở

thích chuyển hướng danh mục đầu tư ít rủi ro hơn như từ các công ty nhỏ và các

công ty rủi ro nhưng lợi tức cao sang các công ty an tồn nhưng lợi tức thấp. Tích tốn trí óc (Mental accounting) có thể ảnh hưởng đến quyết định lên danh mục đầu tư ví dụ như các nhà đầu tư có thể chia lại danh mục đầu tư của họ từ các mục đầu tư tự nhiên vốn có thành một danh mục “an toàn” và một danh mục “rủi ro hơn”. Tâm lý sợ thua lỗ có thể (như đã nói ở mục 1.1.3.2) góp phần vào việc vẫn tiếp tục

đầu tư vào các đầu tư cá biệt trong danh mục đầu tư bất chấp việc thua lỗ đã quá rõ

ràng sau thời kỳ bong bóng đầu cơ. Những khoản lãi bất bình thường của những khoản đầu tư trong suốt thời kỳ đầu cơ bong bóng có thể đã khuyến khích việc các

Rủi ro nhưng lợi nhận cao Ổn định nhưng lợi nhuận thấp Các công ty lớn Các công ty nhỏ Các công ty Việt Nam Các cơng ty nước ngồi

Hình 2.5: Chọn lựa những mục hạn đầu tư nhiều nhất trong và sau thời kỳ bong bong đầu cơ

nhà đầu tư đầu tư mạo hiểm hơn và giảm nhạy cảm với việc thua lỗ. Tuy nhiên, một

điểm khác biệt rõ ràng giữa cái mà các nhà đầu tư cho là ít rủi ro, chẳng hạn các

cơng ty có sự chắc chắn nhưng tỷ suất sinh lợi thấp, thì khá là mang tính chủ quan và vì thế một sự khác biệt hoàn toàn giữa các danh mục đầu tư thì khó mà rút ra

được.

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu lý thuyết hành vi trên thị trường chứng khoán việt nam , luận văn thạc sĩ (Trang 48 - 50)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(156 trang)