Một vài nét địa bàn và khách thể nghiên cứu

Một phần của tài liệu (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Sự hài lòng với hôn nhân của các cặp vợ chồng trí thức trẻ trên địa bàn thành phố Hà Nội (Trang 49 - 51)

Chƣơng 2 : TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Một vài nét địa bàn và khách thể nghiên cứu

2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

Hà Nội – thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá và khoa học kĩ thuật, đồng thời là trung tâm lớn về giao dịch kinh tế và quốc tế của cả nước. Năm 2017, kinh tế của Hà Nội tiếp tục tăng trưởng khá, hoàn thành kế hoạch đề ra, đạt 8,5%. Tổng sản phẩm trên địa bàn ước tăng 8,5% (cách tính mới tăng 7,3%). Chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 7%. Thị trường ổn định, chỉ số giá tiêu dùng bình quân ước tăng 3,05-3,11%.

Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, số lượng đội ngũ trí thức ngày càng tăng nhanh. Nếu như năm 2000, đội ngũ trí thức cả nước chỉ có 1.322.691 người (Từ cao đẳng trở lên) thì đến năm 2013, con số này đã tăng lên là 6.550.234 (gấp 4,95 lần); số thạc sỹ từ 10.000 lên 118.653 người (tăng 11,86 lần), còn số tiến sĩ thì tăng từ 12,691 lên đến 24.667 người (tăng 1.94 lần). số lượng trí thức tập trung chủ yếu tại đô thị, thành phố lớn [60]

Hà Nội nằm giữađồng bằng sông Hồng, phía Bắc tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, phía Nam giáp với Hà Nam, Hòa Bình, phía Đông giáp với Bắc Giang, Bắc Ninhvà Hưng Yên, phía Tây giáp với Phú Thọ.

Với những điều kiện về kinh tế, chính trị, vị trí địa lý thuận lợi hơn so với các tỉnh, thành phố khác Hà Nội là nơi thu hút nhiều lao động trẻ, đặc biệt là trí

thức. Theo Cục Thống kê Hà Nội, dân số và lao động trên địa bàn Thành phố năm 2017 dân số trung bình là 7.654,8 nghìn người, tăng 1,8% so với năm trước; lực lượng trong độ tuổi lao động là 3,8 triệu người. Mật độ dân số trung bình là 2.279 người/km2, phân bố dân cư không đều, tốc độ đô thị hóa phát triển tương đối nhanh. Tỷ lệ lao động đang làm việc qua đào tạo của Hà Nội ước đạt 60,7%.

Bên cạnh đó, cuộc điều tra do Bộ VH-TT&DL, phối hợp với Tổng cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF cho thấy, số vụ ly hôn đang tăng nhanh. Nếu năm 2000 chỉ có 51.361 vụ ly hôn thì năm 2005 đã tăng lên 65.929 vụ. Người vợ đứng đơn ly hôn hiện gấp 2 lần so với người chồng đứng đơn. Số năm sống trung bình trước khi ly hôn của các cặp vợ chồng 18- 60 tuổi là 9,4 năm; còn riêng ở các khu vực nội thành, các thành phố lớn, chỉ 8 năm. Mặc dù chưa có số liệu thống kê cụ thể về thực trạng ly hôn ở trí thức trẻ trên địa bàn thành phố Hà Nội, nhưng kết quả thống kê trên cho thấy số lượng ly hôn có xu hướng ngày càng tăng, đặc biệt là ở các cặp vợ chồng trẻ, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến trí thức trẻ trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Như vậy, số lượng ly hôn ở các cặp vợ chồng trẻ ngày càng tăng và Hà Nội là nơi tập trung nhiều lao động trí thức trẻ, có trình độ chuyên môn. Do vậy đây là một địa bàn rất tốt để tiến hành nghiên cứu.

2.1.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu

Chúng tôi tiến hành khảo sát trên 150 cặp vợ chồng trí thức hiện đang sinh sống và làm việc trên địa bàn thành phố Hà Nội. Sau khi lọc những phiếu trả lời không hợp lệ, chúng tôi thu được 289 phiếu hợp lệ, trong đó 125 cặp phiếu có sự trả lời của cả vợ và chồng. Bảng 2.1 dưới đây sẽ giới thiệu một vài đặc điểm cơ bản của nhóm khách thể nghiên cứu này:

Bảng 2 1: Đặc điểm khách thể nghiên cứu Đặc điểm Tiêu chí N Đặc điểm Tiêu chí N Giới tính Nam 144 Nữ 145 Trình độ đào tạo Cao đẳng 68 Đại học 158 Sau đại học 63 Lĩnh vực nghề nghiệp

Giảng viên, giáo viên. 60

Bội đội, công an 17

Kỹ sư, kiến trúc sư, xây dựng, công nghệ thông tin 26

Công nhân, thợ cơ khí 30

Công chức 10

Nhân viên du lịch 4

Giám sát bán hàng, quản lý 3

Họa sỹ 1

Kế toán, nhân viên ngân hàng, kinh doanh 62

Lao động tự do, lái xe, nội trợ 7

Lưu trữ viên 1

Nghiên cứu viên 4

Bác sĩ, y tá, y sĩ 13

Nhân viên văn phòng 42

Hoàn cảnh sống Ở với bố mẹ chồng 123 Ở với bố mẹ vợ 11 Ở riêng hai vợ chồng 144 Phương án khác 3

Hai vợ chồng và người giúp việc

Một phần của tài liệu (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Sự hài lòng với hôn nhân của các cặp vợ chồng trí thức trẻ trên địa bàn thành phố Hà Nội (Trang 49 - 51)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(129 trang)