1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
2.3. Thị trường nhập khẩu sản phẩm của Công ty.
2.3.1. Các loại thị trường.
Thị trường nhập khẩu là nguồn cung ứng hàng hoá chủ yếu và quan trọng của Công ty, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị nguồn hàng của Công
ty. Ta có thể chia thị trường nhập khẩu của Công ty thành 3 khu vực sau: Khu
vực thị trường Châu Á, Khu vực thị trường Châu Âu và khu vực thị trường
Châu Mỹ.
Trong 3 khu vực thị trường trên, khu vực thị trường châu Á là thị trường
nhập khẩu quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất. Khu vực thị trường
Châu Á bao gồm các nước sau: Nhật Bản, Singapore, Malaysia. Cụ thể năm
2003 Công ty nhập khẩu từ thị trường khu vực châu Á đạt: 42.586.731.440
đồng chiếm 68% tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu của Công ty trong khu vực thị trường này thì Nhật Bản là thị trường quan trọng nhất. Với mặt hàng chủ lực là ôtô chuyên dùng. Tuy nhiên, Công ty cần mở rộng thị trường nhập khẩu sang
một số nước trong khu vực như: Hàn quốc, Trung quốc để làm phong phú nguồn hàng và có điều kiện mua được hàng hoá với giá rẻ và đảm bảo chất lượng hàng hoá.
Khu vực thị trường châu Âu bao gồm một số nước như: Pháp, Đức,
Thuỵ sỹ. Trong năm 2003, tổng giá trị nhập khẩu từ thị trường này đạt 12.415.012.750 đồng chiếm 20% tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu với mặt hàng chủ yếu là các thiết bị, công nghệ và phụ tùng in ấn trong đó thị trường Đức là thị trường quan trọng.
Năm 2003, Công ty đã nhập khẩu từ thị trường khu vực châu Mỹ giá trị hàng hoá đạt 7.455.070.400 đồng chiếm 12% tổng giá trị hàng nhập khẩu với
vị trí địa lý xa nên việc mở rộng nhập khẩu từ thị trường này gặp khó khăn do cước phí vận chuyển cao.
Thị trường nhập khẩu
của Công ty
Khu vực thị trường Khu vực thị trường Khu vực thị trường
Châu Âu Châu Á Châu Mỹ
Pháp Đức Thuỵ Nhật Singapore Malaysia Hoa
sỹ Bản Kỳ
2.3.2. Phương thức giao dịch của Công ty.
Nhập khẩu là một trong những hoạt động ngoại thương mà biểu hiện của
nó là các hợp đồng mua bán ngoại thương.
Theo điều 81 của luật thương mại Việt nam, hợp đồng mua bán quốc tế
có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
- Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có tư cách pháp lý. - Hàng hoá theo hợp đồng là hàng hoá được phép mua bán theo quy định
của pháp luật nước bên mua và nước bên bán.
- Hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài phải được lập thành
Thông qua giao dịch đàm phán các bên xác lập lên các điều khoản của
hợp đồng đó chính là điều kiện giao dịch xác lập quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên. Hợp đồng mua bán ngoại thương được thực hiện dưới hình thức văn bản,
tuỳ vào từng thương vụ mà các điều khoản của hợp đồng chặt chẽ, đầy đủ hoặc được nới lỏng, nó bao gồm các điều kiện như: Điều kiện cơ sở giao hàng, điều
kiện tên hàng, điều kiện phẩm chất, số lượng, bao bì, giá cả, điều kiện thanh
toán... Với bố cục hạn chế của chuyên đề tôi chỉ trình bày hai điều kiện cơ bản đó là điều kiện cơ sở giao hàng và điều kiện thanh toán.
2.3.2.1. Điều kiện cơ sở giao hàng.
Điều kiện cơ sở giao hàng quy định những cơ sở có tính nguyên tắc của
việc giao nhận hàng hoá giữa bên mua và bên bán, những nguyên tắc này được
phòng thương mại quốc tế (ICC) xây dựng và được các nước công nhận áp
dụng làm quy tắc chung cho các giao dịch ngoại thương. Có 13 điều kiện cơ sở giao hàng và được chia thành bốn nhóm :
- Nhóm E là một điều kiện giao tại nơi đến với hình thức tiêu biểu là giao tại xưởng (EXW - Exwork).
- Nhóm F với điểm chung là người mua phải trả cước phí chính .
- Nhóm C có bốn điều kiện với đặc điểm chung là người bán trả cước
cho trạm vận tải chính.
- Nhóm D có năm điều kiện với điểm chung là người bán phải mang
hàng tới tận nơi của người mua.
Ngoài các điều kiện trên trong giao dịch ngoại thương người ta còn sử
dụng những biến dạng của các điều kiện đó. Ở Việt nam ta hiện nay sử dụng
hai hình thức cơ sở giao hàng là FOB và CIP.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện chi trả bằng tiền liên quan đến các
dịch vụ mua bán hàng hoá hay cung ứng lao vụ không mang tính chất hàng hoá giữa các tổ chức, cá nhân nước này với các tổ chức, cá nhân nước khác hay
giữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế thông qua hệ thống Ngân hàng của các nước có liên quan.
Ngày nay, trong buôn bán quốc tế các đối tác thường muốn sử dụng các
ngoại tệ mạnh như: Đôlla Mỹ (USA), bảng Anh (GBP), đồng EURO... để làm
đồng tiền thanh toán hợp đồng. Các đồng tiền này có ưu điểm là ít biến động
trên thị trường tiền tệ và có thể được dùng vào công tác nhập khẩu hoặc dự trữ
ngoại tệ.
Hiện nay, các bên trong quan hệ ngoại thương có thể sử dụng các phương thức thanh toán như: Trả ngay bằng tiền mặt, phương thức chuyển tiền, phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ.