Hệ thống điều tiết mặt ruộng của hệ thống t−ới n−ớc thải cũng giống nh− hệ thống điều tiết mặt ruộng của hệ thống t−ới n−ớc sạch. Nh−ng để tránh hiện t−ợng ngấm làm ô nhiễm và dâng cao n−ớc ngầm, tránh sự rò rỉ của hệ thống kênh m−ơng và bờ ruộng làm bẩn các khu vực xung quanh ảnh h−ởng đến vệ sinh phòng bệnh nên có hệ thống tiêu n−ớc hoàn chỉnh và đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Độ sâu kênh tiêu th−ờng từ 1,2 ữ 1,5m, khoảng cách từ 100 ữ 200m là hợp lý. N−ớc thừa của các khu ruộng t−ới n−ớc thải thì do tác dụng lắng đọng ở mặt ruộng nên đã sạch đi rất nhiều và phù hợp với tiêu chuẩn n−ớc t−ới ruộng. Do đó có thể lợi dụng l−ợng n−ớc thừa của khu t−ới n−ớc thải t−ới cho các khu vực trồng trọt lân cận, nh− vậy sẽ phát huy triệt để hiệu ích kinh tế của n−ớc t−ới, diện tích t−ới đ−ợc mở rộng thêm.
Trong thực tế, để tránh các chất dinh d−ỡng tích luỹ trong đất quá nhiều và có thể mở rộng đ−ợc diện tích sử dụng n−ớc thải, th−ờng dùng biện pháp t−ới luân phiên giữa n−ớc thải và n−ớc sạch.
Đối với hệ thống điều tiết mặt ruộng, có thể kết hợp chung cho cả việc t−ới n−ớc thải và n−ớc sạch.
Trên đây chỉ giới thiệu những nét cơ bản làm tiền đề cho việc bố trí hệ thống t−ới n−ớc thải. Nh−ng khi thiết kế quy hoạch hệ thống t−ới n−ớc thải, phải tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng vùng để bố trí cho phù hợp với thực tế của khu vực đó. Trong thực tế một số vùng dùng n−ớc thải t−ới ruộng không qua b−ớc quy hoạch, xây dựng công trình xử lý hoàn chỉnh, chỉ dẫn n−ớc từ cửa tháo n−ớc vào các khu vực t−ới sau mới hoàn chỉnh và mở rộng diện tích t−ới dần dần cho đến lúc lợi dụng hết toàn bộ l−u l−ợng n−ớc thải thành phố thải ra. Loại hệ thống t−ới này th−ờng dùng bể điều tiết và bể lắng theo hình thức phân tán.
Bể điều hoà và bể lắng th−ờng bố trí ở trên các tuyến kênh nhánh hoặc trên các tuyến m−ơng cái. Bố trí theo kiểu này có hạn chế là diện tích ảnh h−ởng đến n−ớc ngầm và vệ sinh t−ơng đối rộng. Nh−ng có −u điểm là kỹ thuật đơn giản, tốc độ xây dựng nhanh, dân dễ dàng nắm bắt đ−ợc, dễ thực hiện. Nếu bảo đảm đ−ợc vệ sinh chung thì hình thức bố trí kiểu này có thể sử dụng một cách rộng rãi.
16.6.4. Tác dụng tự làm sạch trong việc dùng n−ớc thải t−ới ruộng
1. Tác dụng lọc n−ớc
Dùng n−ớc thải t−ới ruộng theo định mức t−ới không những nâng cao sản l−ợng cây trồng còn có tác dụng làm sạch n−ớc, tiết kiệm đ−ợc vốn đầu t− xây dựng cho các công trình xử lý n−ớc thành phố, giảm nhẹ mức độ làm bẩn nguồn n−ớc sông, hồ, đầm. N−ớc thải t−ới ruộng có tác dụng nh− một bể lọc nhân tạo với phạm vi lớn, n−ớc bẩn t−ới vào ruộng lúa sẽ đ−ợc lọc sạch tới một mức độ nhất định.
Hơn 20 năm gần đây, trên thế giới nhiều n−ớc dùng bể lọc có chiều sâu 2 ữ 3 m với thời gian lọc từ 30 ữ 50 ngày và đã phát triển kiểu bể lọc n−ớc nông 20 ữ 30 cm với thời gian lọc từ 2 ữ 6 ngày trên một diện tích khá lớn.
Từ kinh nghiệm này ta có thể kết luận dùng n−ớc thải để t−ới có giá trị thực tế, phù hợp với khoa học xử lý n−ớc và hiệu ích kinh tế cao.
Dùng n−ớc thải t−ới cho lúa với lớp n−ớc mặt ruộng nông từ 3 ữ 10 cm có nhiệt độ cao tạo điều kiện thuận lợi cho oxy hoá nhanh chóng và trong thời gian ngắn, chất lơ lửng và kết tủa lắng đọng tạo thành phân bón nuôi cây.
Quá trình n−ớc thải đ−ợc lọc sạch là một quá trình phức tạp liên quan đến các yếu tố nh− tính chất n−ớc thải, nhiệt độ n−ớc thải, l−ợng oxy hoà tan vào n−ớc, l−ợng oxy do thực vật phù du sinh ra, sự hấp thụ dinh d−ỡng của cây trồng...
Sự hấp thụ dinh d−ỡng của cây trồng, thực vật phù du nhờ quang hợp sản sinh oxy, hoạt động phân hoá chất hữu cơ có quan hệ mật thiết với nhau và có vai trò rất quan trọng trong việc sạch hoá n−ớc thải. Cả quá trình đó có thể chia thành các giai đoạn sau: