phẩm tại Việt Nam
Chuỗi giá trị của ngành CBTP được thể hiện qua sơ đồ giản lược sau:
Đầu vào của ngành CBTP, nhất là nguồn cung từ các hộ chăn nuơi, trồng trọt trong nước thể hiện tính phân tán rõ nét, do số lượng các hộ nuơi trồng này lên tới hàng triệu và phân bố trên phạm vi rộng lớn ở nhiều vùng nơng thơn khác nhau trên cả nước. Các hộ nuơi trồng này cung cấp các sản phẩm của hoạt động chăn nuơi, trồng trọt chưa qua chế biến hoặc mới chỉ được sàng lọc, chế biến thơ sơ (ví dụ hoa quả tươi, thịt tươi sống…) làm nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp CBTP.
Khác với đầu vào, sức tiêu thụ đầu ra của ngành CBTP lại tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị các khu cơng nghiệp tập trung. Đối tượng tiêu thụ sản phẩm của ngành CBTP cũng vơ cùng đa dạng về mặt đặc điểm kinh tế - xã hội. Bên cạnh đĩ, do Việt Nam là một nước ở vùng nhiệt đới với đường bờ biển kéo dài 3444 km nên các mặt hàng thực phẩm tiêu biểu cũng thể hiện rõ đặc điểm địa lý kinh tế này, thường là các loại nơng sản vùng nhiệt đới, thủy hải sản và các sản phẩm chế biến từ một số loại gia súc, gia cầm…
Ngồi ra, cả nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra của ngành CBTP đều chịu tác động của tính vụ mùa và tính vùng miền. Hoạt động chăn nuơi, trồng trọt cũng như tiêu thụ thực phẩm nĩi chung đều tuân theo các quy luật mang tính chu kỳ của thời tiết, mùa màng và các hoạt động xã hội và tính vụ mùa này sẽ ảnh hưởng tới tình hình kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp CBTP trong năm. Hoạt động chăn nuơi, trồng trọt và tiêu thụ thực phẩm cịn khác nhau giữa các vùng miền, do đặc thù về tự nhiên và văn hĩa – xã hội của mỗi vùng là khác nhau, khiến cho kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành CBTP cịn thay đổi theo từng khu vực địa lý.