mạng mỗi nước. Đảng Cộng sản mỗi nước trước hết phải chịu trách nhiệm đối với vận mệnh của nhân dân, dân tộc mình. Đảng Cộng sản Việt Nam khi định ra đường lối luôn cố gắng vận dụng sáng tạo chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam.
- Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường đem sức ta mà giải phóng cho ta là tư tưởng xuyên suốt của Đảng và Bác Hồ. Một dân tộc mà chỉ biết trông chờ vào dân tộc khác giải phóng cho mình thì dân tộc đó không xứng đáng được hưởng độc lập, tự do. Ở Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng xuất hiện tư tưởng cầu ngoại nhưng đều thất bại, Đảng ta ngay từ khi mới ra đời đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập tự chủ với đoàn kết quốc tế tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
- Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đặc biệt coi trọng xây dựng lực lượng cách mạng trong nước (nội lực) đồng thời ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của các nước (ngoại lực) nhằm thúc đẩy và nắm bắt thời cơ giành thắng lợi như trong cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Ngày nay, Đảng chủ trương coi nguồn lực trong nước là chính, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, hội nhập càng sâu độc lập tự chủ càng cao.
- Tình hình thế giới và trong nước hiện nay vừa có thuận lợi, thời cơ vừa có khó khăn, thách thức đan xen. Do đó, để đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có hiệu quả chúng ta cần nỗ lực, phấn đấu, tận dụng, nắm bắt cơ hội, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời chủ động khắc phục, vượt qua khó khăn thách thức để phát triển.
- Để giữ vững độc lập, tự chủ trong khi đoàn kết quốc tế, luôn luôn nắm vững tính hai mặt của hợp tác quốc tế, vừa hợp tác vừa đấu tranh, hợp tác vì lợi ích quốc gia, dân tộc, đấu tranh là để tăng hợp tác; tùy theo đối tượng quan hệ mà xác định mức độ hợp tác và đấu tranh.
4.3. Đoàn kết quốc tế qua các thời kỳ cách mạng
- Hội nghị thành lập Đảng, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (3-2-1930), Đảng đã chủ trương: cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Trong những năm 1930-1945, Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam củng cố đoàn kết với nhân dân 3 nước Đông Dương, thực hiện mục tiêu chung để giành độc lập dân tộc. Đoàn kết với các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong phong trào giải phóng dân tộc, mà Việt Nam là lá cờ đầu của phong trào này. Đoàn kết với giai cấp vô sản và các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc, Pháp…vv, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản để đấu tranh cho độc lập, dân tộc. Được sự đoàn kết, giúp đỡ này của quốc tế, đã tạo ra thời cơ thuận lợi để Đảng lãnh đạo toàn dân tộc làm cách mạng tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ (1945-1975), Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam hình thành một khối đoàn kết rộng lớn. Đó là đoàn kết, liên minh chặt chẽ với Lào và Campuchia chống kẻ thù chung trên bán đảo Đông Dương. Củng cố tình hữu nghị và ngày càng tăng cường đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nên được sự giúp đỡ về mọi mặt trong hai cuộc kháng chiến. Trong cuộc đấu tranh chính nghĩa này, nhân dân Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng, hòa bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp và Mỹ. Đây cũng là thời điểm phong trào giải phóng dân tộc ở Á-Phi-Mỹ La tin đã đoàn kết tốt với cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Đó chính là sức mạnh dân tộc, tinh thần yêu nước của Việt Nam, kết hợp với sức mạnh của đoàn kết quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
- Từ năm 1975, Đảng lãnh đạo mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt trong công cuộc đổi mới ngày nay. Tại Đại hội VII, Đảng khẳng định đường lối đối ngoại rộng mở, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Với chủ trương đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ quốc tế trên nhiều lĩnh vực, Đảng lãnh đạo nước ta hội nhập với khu vực và thế giới.
Trong những năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu cơ bản. Cụ thể: Tháng 7-1995, nước ta đã gia nhập ASEAN, tham gia nhiều tổ chức và diễn
đàn thế giới; ngày 7-11-2006 trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng vạch rõ: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới, trên tinh thần độc lập, tự chủ. Với đường lối đối ngoại rộng mở hiện nay, Đảng lãnh đạo nhân dân ta kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển đất nước ngày càng vững mạnh.
4.4. Nội dung chủ yếu của bài học thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợpsức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
- Đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên những nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Phát huy sức mạnh của dân tộc là phát huy của khối đoàn kết toàn dân, của tất cả các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng của toàn thể nhân dân Việt Nam, của nguồn trí tuệ, nhân lực, tài nguyên… Sức mạnh thời đại là sức mạnh của nền văn minh nhân loại, của khoa học và công nghệ mới, của kinh nghiệm công nghiệp hóa của các nước, của sự phát triển kinh tế hiện nay của nhân loại, đó là sự quan hệ rộng mở với các nước trên thế giới để tiếp thu những thành tựu mới của nhân loại…, nhưng phải giữ vững độc lập tự chủ, không ỷ lại, phụ thuộc vào bên ngoài, mà phải giữ vững bản chất của Đảng, chủ quyền quốc gia, bản sắc dân tộc. Tham khảo, vận dụng kinh nghiệm của nước ngoài, nhưng không bắt chước một cách máy móc, không sao chép nguyên si, phải vận dụng kinh nghiệm của các nước một cách sáng tạo. Độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế gắn liền với nhau và hỗ trợ cho nhau: có độc lập tự chủ mới tranh thủ được đoàn kết quốc tế, đoàn kết quốc tế làm tăng thêm sức mạnh của dân tộc.
- Đảng ta ngay từ khi thành lập và suốt tiến trình cách mạng luôn vạch ra đường lối đoàn kết quốc tế, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa yêu nước đã ăn sâu vào máu thịt của con người Việt Nam, trở thành truyền thồng của dân tộc, Đảng đã lãnh đạo quán triệt và thực hiện thường xuyên kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nên đã hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày nay trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục phát triển và vận dụng sự kết hợp
nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong điều kiện mới. Đảng ta thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở “muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, đó là đoàn kết hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, với phong trào không liên kết, các lực lượng hòa bình và tiến bộ trên thế giới. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, để thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Bám sát thời cuộc và tận dụng thời cơ. Đảng ta trong tiến trình cách mạng rút ra được kinh nghiệm nắm bắt đúng thời cơ, tiếp cận kịp thời chính xác, khai thác được thông tin từ nhiều phía; phân tích, dự báo tình hình để vạch ra đường lối đúng đắn phù hợp, lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là tận dụng thời cơ Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân làm Tổng khởi nghĩa thành công trong cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, nhờ dự báo đúng và nắm bắt thời cơ Đảng đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân ta làm nên thắng lợi trong chiến dịch Biên Giới năm 1950, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, công tác dự báo chiến lược, tạo ra và nắm bắt thời cơ để giành thắng lợi đã được nâng lên ở trình độ cao về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh. Sau khi Mỹ và bè lũ tay sai thất bại ở cả hai miền Nam – Bắc, buộc phải ký Hiệp định Paris năm 1973. Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh trên nhiều lĩnh vực với chính quyền tay sai, vận động quốc tế để kiềm chế và ngăn ngừa sự can thiệp của Mỹ, tạo ra thời cơ để thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam năm 1975 một cách trọn vẹn. Sau 10 năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng ta đã đánh giá và dự báo đúng thời cơ, đề ra và thực hiện công cuộc đổi mới. Để nắm bắt thời cơ, năm 2001 ta ký Hiệp định thương mại với Mỹ, để sớm gia nhập WTO với điều kiện ít ngặt nghèo, khắc nghiệt hơn nếu đàm phán gia nhập sau. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ: “Tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”43.
Tóm lại: Đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại là bài học xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam, do Đảng ta lãnh đạo. Trong điều kiện mới, bài học này cần được phát huy cao độ để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế trên tinh thần độc lập, tự lực, tự cường vì lợi ích của nhân dân.
5. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNGLỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
5.1. Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhânđồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam