PHẦN 1 MỞ ĐẦU
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.2. Kinh nghiệ mở Việt Nam về quản lý môi trường làng nghề
2.2.2.1. Kinh nghiệm tại Bát Tràng
Trước đây làng gốm Bát Tràng, trước đây, mỗi ngày, làng nghề tiêu thụ khoảng 800 tấn than và thải vào môi trường các loại khí độc hại: CO, SO2, H2S, bụi silic, chất thải rắn... Để giải quyết bài toán phát triển bền vững, các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất làng nghề Bát Tràng đã tích cực tham gia chuyển đổi công nghệ sản xuất. 6 năm trước đây, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Quỹ Môi trường toàn cầu của UNDP triển khai dự án “Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” tại làng nghề. Dự án đã giúp các doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ nung gốm từ các lò than, lò gas truyền thống sang lò gas hiện đại. Đến thời điểm này, Bát Tràng đã có trên 400 hộ sử dụng lò nung gốm bằng khí gas hóa lỏng, góp phần làm giảm phần lớn lượng phế phẩm so với lò than và hạn chế ô nhiễm ra môi trường xung quanh. Thành công của dự án này ở làng nghề Bát Tràng đã có sức lan tỏa rất lớn.
Đến nay, cả làng nghề Bát Tràng đã có 131 doanh nghiệp và hộ sản xuất áp dụng công nghệ lò gas cải tiến. Đặc biệt, nhờ có hơn 90% các hộ sản xuất gốm sứ chuyển sang sử dụng công nghệ lò gas cải tiến đã giúp giảm tiêu hao năng lượng, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường, giải quyết việc làm cho khoảng 4.000 lao động. Doanh thu của xã Bát Tràng hiện nay đạt 400 tỷ đồng/năm, bình quân 22 triệu đồng/người, lợi nhuận tăng gấp 2-3 lần so với công nghệ cũ (Anh Phương, 2012).
2.2.2.2. Kinh nghiệm tại tỉnh Bắc Ninh
Theo Lương Văn Đức (2014), làng nghề có vai trò quan trọng trong giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở nông thôn như chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giải quyết việc làm tại chỗ, xoá đói giảm nghèo, khai thác được tiềm năng cũng như phát huy được lợi thế so sánh, lợi thế nhờ qui mô ở từng vùng, từng địa phương. Qua đó góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Với nhận thức như vậy, lãnh đạo các cấp của Bắc Ninh đã tập trung coi trọng phát triển mạnh nghề và làng nghề. Nếu năm 2000, Bắc Ninh có 58 làng nghề, trong đó có 30 làng
nghề truyền thống và 28 làng nghề mới, thì đến nay, số lượng làng nghề ở Bắc Ninh đã tăng lên 62. Trong những năm qua, giá trị sản xuất của các làng nghề luôn chiếm tỷ lệ cao trong giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh và chiếm khoảng 30% giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh. Năm 2000 giá trị sản xuất công nghiệp của làng nghề đạt 561,3 tỷ đồng, chiếm 75% giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh và 28,3% giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Năm 2002 giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh của cả tỉnh đạt 1.410,26 tỷ đồng thì giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong làng nghề đạt 1.057,5 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31,5% giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Năm 2003, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn đạt 4.300 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 2.368 tỷ đồng và giá trị sản xuất công nghiệp trong các làng nghề đạt 1.776 tỷ đồng (tính theo giá cố định năm 1994). Để đạt được kết quả như trên, tỉnh Bắc Ninh đã và đang thực hiện nhiều giải pháp quan trọng như xây dựng và quản lý các cụm công nghiệp làng nghề, đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, mở rộng và phát triển đồng bộ thị trường làng nghề, nâng cao chất lượng hàng hoá của làng nghề, đào tạo phát triển nguồn nhân lực…, trong đó nổi bật là các vấn đề sau:
Thứ nhất: Xây dựng và quản lý các cụm công nghiệp làng nghề. Bắc Ninh coi việc quy hoạch tạo mặt bằng cho sản xuất ở các làng nghề là một khâu đột phá quan trọng trong phát triển làng nghề. Hình thành các khu, cụm công nghiệp làng nghề, thực chất là chuyển một phần diện tích đất canh tác nông nghiệp của chính làng nghề sang đất chuyên dùng cho sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và tạo điều kiện cho các hộ sản xuất trong các làng nghề di dời ra khu sản xuất tập trung, tách sản xuất ra khỏi khu dân cư. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, vừa qua các ngành chức năng của tỉnh phối hợp với các địa phương đã tiến hành xây dựng được 21 khu công nghiệp làng nghề với tổng diện tích đất qui hoạch là 460,87 ha. Trong đó điển hình là khu công nghiệp làng nghề Châu Khê, Từ Sơn có diện tích 13,5 ha, đã thu hút 159 cơ sở sản xuất thép trong làng thực hiện di dời ra khu công nghiệp; khu công nghiệp gỗ mỹ nghệ đồng Quang có diện tích 12,7ha, thu hút 71 công ty tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn di chuyển vào khu công nghiệp; khu công nghiệp giấy Phong Khê diện tích 12,7ha cũng đã được cấp phép xây dựng cho 22 công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty tư nhân.
Thứ hai: vấn đề vốn cho sản xuất kinh doanh. để giải quyết vấn đề khó khăn về vốn cho sản xuất kinh doanh của các làng nghề, Bắc Ninh đã chú trọng đến hệ thống ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Với 8 chi nhánh cấp huyện, thị của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và nhiều chi nhánh liên xã hầu hết nằm ở khu vực kinh tế phát triển (bán kính bình quân 7 km có một chi nhánh). Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Ninh thực hiện chủ trương tất cả các dự án khả thi của các hộ sản xuất đều được Ngân hàng cho vay 70% giá trị mua sắm tài sản cố định bằng nguồn vốn vay trung hạn và hỗ trợ cho vay từ 30-50% vốn lưu động. Nhiều làng nghề được Ngân hàng cho vay đã nhanh chóng nâng cao được năng lực sản xuất, kinh doanh, có doanh thu hàng trăm tỷ đồng/năm, như làng mộc mỹ nghệ Đồng Kỵ, sắt Đa Hội… Đặc biệt, sự đầu tư của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã góp phần khôi phục làng nghề dâu tằm tơ truyền thống Vọng Nguyệt xã Tam Giang huyện Yên Phong. Nhờ được khôi phục, làng nghề này đã thu hút trên 1.000 lao động, gồm 120 xưởng sản xuất và làm ra gần 40 tấn kén/năm.
2.2.2.3. Kinh nghiệm tại tỉnh Thái Bình
Nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề đang trở nên bức xúc, trong những năm qua, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình đã có những biện pháp hiệu quả để lại những kinh nghiệm quý báu về quản lý nhà nước đối với vấn đề bảo vệ môi trường, đó là:
- Xây dựng quy chế cho các làng nghề truyền thống.
- Xây dựng các dự án, quy hoạch tổng thể phát triển các làng nghề. - Đầu tư, bố trí hợp lý cơ sở hạ tầng: giao thông, cấp thoát nước,...
- Dùng vốn khuyến công lấy từ ngân sách của tỉnh để hỗ trợ cho một số doanh nghiệp sản xuất lớn trong các làng nghề để cải tiến công nghệ nấu, tẩy nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường.
- Xây dựng các dự án áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật giảm ô nhiễm môi trường như dự án “áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây dựng mô hình xưởng mạ bạc quy mô nhỏ bảo đảm an toàn vệ sinh môi trường tại xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương”. (Nguyễn Thị Hoa, 2015).
2.2.2.4. Kinh nghiệm tại tỉnh Hà Tĩnh
Theo Nguyễn Thị Hoa (2015), kinh tế làng nghề trên địa bàn Hà Tĩnh vẫn mang nét cục bộ, được duy trì thông qua việc nối truyền của các thế hệ, dựa trên
đúc rút kinh nghiệm là chủ yếu. Thêm vào đó, sản phẩm của những làng nghề chưa thể vươn ra thị trường trong nước và quốc tế. Tính chất khép kín ấy đã kìm hãm sự phát triển của làng nghề trong thời đại công nghệ và hội nhập như hiện nay. Vậy nên, chủ trương khôi phục làng nghề ngoài mục đích tạo việc làm còn có ý nghĩa phục hồi, duy trì những giá trị văn hoá truyền thống trong lao động sản xuất.
Theo kết quả điều tra của Ban quản lý Dự án “Xây dựng mô hình phát triển làng nghề truyền thống” của Hội Liên hiệp Khoa học – Kỹ thuật Hà Tĩnh, hiện nay, các làng nghề truyền thống ở địa phương vẫn được duy trì, nhưng lượng người tham gia ngày càng ít. Số hộ chuyên làm nghề chỉ chiếm 30%, còn lại vừa làm nghề thủ công, vừa làm nông nghiệp. Để khôi phục có hiệu quả những làng nghề truyền thống, thiết nghĩ cần triển khai đồng bộ các giải pháp như: khẩn trương rà soát, khảo sát xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển ngành nghề nông thôn nằm trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tổ chức lập quy hoạch chi tiết xây dựng làng nghề, ngành nghề nông thôn phù hợp nhằm khai thác, phát huy những ngành nghề lợi thế của từng vùng, từng địa phương; tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch các cụm, điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp làng nghề của các huyện, thị xã, thành phố để có định hướng đầu tư phát triển hiệu quả.
Muốn phục hồi và duy trì phát triển bền vững của các làng nghề thì vấn đề quan trọng nhất là nguồn kinh phí. Do đó, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã quan tâm hỗ trợ nguồn vốn từ ngân sách để phát triển các ngành nghề nông thôn; triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng các cụm, điểm công nghiệp làng nghề hiện có theo hướng đồng bộ, đồng thời chú trọng khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng hạ tầng làng nghề; gắn công tác quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng với việc ban hành và thực hiện tốt các chính sách về thu hút đầu tư, ưu đãi đầu tư… Cùng đó là chú trọng việc hỗ trợ chính sách phát triển thị trường, hỗ trợ thiết kế mẫu mã sản phẩm, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, hỗ trợ xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn; xây dựng chính sách kêu gọi các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn để thu hút lao động địa phương.
Tỉnh cũng gắn chặt công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn với giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo nhằm bảo đảm an sinh xã hội ở vùng nông thôn. Sự lớn mạnh của làng nghề kéo theo sự
phát triển các loại dịch vụ liên quan khác sẽ làm thay đổi diện mạo của một vùng quê, góp phần tích cực trong việc tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn, nâng cao thu nhập, từ đó đẩy nhanh công cuộc xây dựng thôn mới ở Hà Tĩnh.