ĐÁNH GIÁ CHUNG

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) thực thi các quy định về lao động trong một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thuận lợi và thách thức (Trang 53)

7. Bố cục của đề tài

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG

2.3.1. Các ưu điểm

Các FTA Việt Nam đã tham gia ký kết đã tạo hiệu ứng thúc đẩy tăng nhanh giá trị thương mại hai chiều của Việt Nam với các đối tác ASEAN và ASEAN+. Các FTA mà Việt Nam đã tham gia, ký kết tác động tích cực trong việc mở rộng thị phần của hàng XK Việt Nam tại thị trường các đối tác, nhất là tại thị trường ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản.

Bên cạnh đó, các FTA Việt Nam đã tham gia, ký kết tạo hiệu ứng tích cực đến đa dạng hoá mặt hàng XK của Việt Nam sang thị trường các đối tác, nhất là ASEAN, Ấn Độ và Nhật Bản. Các mặt hàng XK chính của Việt Nam (30 nhóm mặt hàng) đều có khả năng hưởng lợi từ các FTA khu vực mà Việt Nam đã tham gia, ký kết (tỷ trọng xuất siêu của Việt nam giai đoạn 2001-2010 sang Hoa Kỳ chiếm 45,5%; Ô-xtray-lia chiếm 15,5%; Philippin chiếm 4,8%). Với việc ký kết và thực hiện FTA với các nước phát triển đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu các ngành sản xuất trong nước theo chiều hướng có hiệu quả hơn…

Về cơ bản, các FTA mà Việt Nam đã tham gia, ký kết tạo hiệu ứng tích cực thúc đẩy cải cách và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường đầy đủ, tạo điều kiện tích cực đối với phát triển thương mại song phương của Việt Nam với các đối tác

79 Gabrielle Marceau, tlđd, p. 549.

trong tham gia các FTA khu vực (ASEAN + 6). Trong đó, các FTA đã tạo những điều kiện thương mại thuận lợi từ phía các đối tác để Việt Nam khai thác tốt hơn lợi thế so sánh. Đồng thời, các FTA đã ký kết cũng tạo hiệu ứng tích cực đối với Việt Nam trong cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hoàn thiện môi trường kinh doanh để phát triển nhanh và bền vững.

Mặt khác, FTA đã ký kết có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thông qua sự gia tăng tốc độ XK và thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam. Đồng thời, góp phần tích cực vào việc giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động.

Các FTA đã ký kết có tác động tích cực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, doanh nghiệp và của nền kinh tế nhờ vào việc tiếp cận thị trường xuất khẩu có sự ưu đãi về thuế quan, giảm được chi phí các yếu tố đầu vào bởi được chuyển giao công nghệ và nhập khẩu các yếu tố đầu vào với giá rẻ hơn theo các điều kiện ưu đãi trong các FTA.

Sự tham gia 6 FTA khu vực là một nấc thang quan trọng để Việt Nam bước tiếp lên các nấc thang liên kết và hội nhập quốc tế cao hơn, sâu hơn, trước hết là trong việc hoàn thành AEC vào năm 2015.81

Trên thực tế, Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể về khuôn khổ pháp luật lao động. Trong những năm gần đây, diện bao phủ của sự bảo vệ về pháp luật đã được mở rộng dần đến người lao động trong nền kinh tế phi chính thức. Đồng thời, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu đã trở thành một quá trình ba bên với sự tham gia của đại diện chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động, thông qua Hội đồng tiền lương quốc gia.82

2.3.2. Các hạn chế và nguyên nhân Hạn chế chung: Hạn chế chung:

Một là, tham gia các FTA còn mang tính bị động, đôi khi còn bị lôi cuốn theo tình thế, thiếu nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn, chưa có chiến lược bài bản rõ ràng khi tham gia các FTA , đặc biệt là mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị chưa tốt. Nhìn

81PGS.TS. Đinh Văn Thành - Viện trưởng Viện NCTM - Tạp chí Nghiên cứu Thương mại - Viện NCTM - www.viennghiencuuthuongmai.com.vn/tapchi (Ngày 01/12/2012)

chung, chúng ta chưa nỗ lực cao để tận dụng tối đa các ưu đãi, các cơ hội từ tham gia các FTA trong việc duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu cao sang các thị trường đã ký FTA, bị động trong việc hạn chế các tác động bất lợi của tự do hóa theo các cam kết FTA đối với thương mại , nhất là khi xảy ra khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu. Đồng thời, chưa chuẩn bị tốt các điều kiện cơ bản trong nước khi tham gia các FTA và chưa tận dụng tốt cac ưu đãi trong các FTA đã ký kết để cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán vãng lai và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững.

Hai là, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đã ký FTA chưa có chuyển biến mạnh, vẫn tập trung chủ yếu vào các mặt hàng nông sản , các mặt hàng công nghiệp sử dụng nhiều lao động và các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu…Đặc biệt, có một số mặt hàng như cao su, dừa, rau quả, than đá…chúng ta đã tập trung quá lớn vào thị trường Trung Quốc (chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này) mà không đa dạng hóa thị trường. Tình hình trên đã dẫn đến việc phụ thuộc quá lớn vào một thị trường và khi đối tác giảm nhập khẩu thì chúng ta đã phải gánh chịu những hậu quả không nhỏ.

Ba là, một số FTA mà Việt Nam tham gia đã tạo điều kiện thương mại thuận lợi cho phía đối tác trong tiếp cận thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam và trong một mức độ nhất định đã có những tác động không tốt đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Đó là một số tác động bất lợi đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam trong cả ngắn và trung hạn. Việc thực hiện FTA với Trung Quốc (nước lớn, có biên giới liền kề và có nhiều điểm tương đồng về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu), nhưng hàng hoá nước này có sức cạnh tranh cao hơn hàng hoá của Việt Nam đã dẫn tới hàng Trung Quốc xâm nhập ngày càng mạnh vào thị trường nước ta bằng cả con đường chính ngạch và thương mại biên giới. Hiện tại, một số ngành sản xuất của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phải thu hẹp sản xuất hoặc đóng cửa vì không cạnh tranh được với hàng của Trung Quốc. Trong điều kiện chúng ta chưa xây dựng đầy đủ và sử dụng hiệu quả các hàng rào thương mại (TBT,

SPS, các biện pháp phòng vệ thương mại tạm thời) để bảo vệ thị trường trong nước

theo quy định của WTO.83

Hạn chế về các quy định pháp luật về lao động:

Đối chiếu tiêu chuẩn tự do hiệp hội theo tiêu chuẩn lao động quốc tế, có một số nội dung mà pháp luật Việt Nam chưa đáp ứng được, cụ thể:

- Chưa đáp ứng được quyền tự do tổ chức và gia nhập các tổ chức của người lao động: Mặc dù Bộ luật Lao động hiện hành đã cho phép người lao động và người sử dụng lao động có quyền thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động và Luật Công đoàn hiện hành quy định Công đoàn Việt Nam có hệ thống tổ chức 04 cấp từ Trung ương đến cấp cơ sở là đại diện duy nhất của người lao động trong quan hệ lao động.

- Chưa đáp ứng được quyền hưởng sự bảo vệ thích đáng trước mọi hành vi phân biệt đối xử chống lại công đoàn trong việc làm của họ, nhất là về tài chính công đoàn.

- Chưa đáp ứng hoàn toàn quyền đình công của người lao động: Pháp luật lao động quy định rộng về danh mục doanh nghiệp không được đình công (có thể làm hạn chế quyền đình công của người lao động); không cho phép đình công ngoài phạm vi doanh nghiệp (vi phạm quyền liên kết của các tổ chức của người lao động và quyền tổ chức, thương lượng tập thể).

Như vậy, điểm chưa tương thích mấu chốt của Việt Nam so với tiêu chuẩn lao động quốc tế là người lao động có quyền tự do thành lập và gia nhập tổ chức khác ngoài công đoàn theo hệ thống công đoàn Việt Nam hiện nay.

Nguyên nhân:

Những hạn chế, yếu kém trên đây một phần do nguyên nhân khách quan (như tác động bất lợi của hai cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và suy thoái kinh tế toàn cầu, sự biến đổi nhanh và khó lường của tình hình chính trị và kinh tế thế giới), nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu. Hệ thống pháp luật trên một số lĩnh vực trực tiếp liên quan đến hội nhập quốc tế nói chung và tham gia FTA nói riêng còn nhiều bất

83PGS.TS. Đinh Văn Thành - Viện trưởng Viện NCTM - Tạp chí Nghiên cứu Thương mại - Viện NCTM - www.viennghiencuuthuongmai.com.vn/tapchi/ (Ngày 01/12/2012)

cập. Kết cấu hạ tầng còn yếu kém, nhất là hạ tầng phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chuyên gia còn nhiều hạn chế, cả ở trong khâu đàm phán ký kết FTA và thực hiện các cam kết. Tiềm lực kinh tế của đất nước còn hạn chế, năng lực cạnh tranh và mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp Việt Nam trong tham gia các FTA và sự chủ động của các doanh nghiệp trong khai thác, tận dụng những ưu đãi của các đối tác dành cho Việt Nam trong các FTA, đặc biệt là VJFTA còn thấp…

Nhìn chung chất lượng lao động của Việt Nam vẫn được đánh giá là chưa sẵn sàng cho “sân chơi” mới đầy thách thức này. Chất lượng của lao động Việt Nam còn khá thấp và sự thiếu hụt lao động có tay nghề, năng suất lao động thấp, trình độ ngoại ngữ tương đối yếu so với các nước trong khu vực.

Những kết quả khảo sát đối với các doanh nghiệp cho thấy, nhiều học sinh, sinh viên ra trường không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Tháng 4-2018, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố một khảo sát về LĐ, trong đó cho biết, những khó khăn mà các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam gặp phải trong tìm ra những ứng cử viên đáp ứng được các vị trí công việc đòi hỏi tay nghề cao. Kết quả khảo sát cho thấy, khoảng 70-80% các ứng viên ứng tuyển vào các vị trí quản lý và kỹ thuật

không đáp ứng được yêu cầu.84

84Mỹ Hạnh - Chủ động xử lý những vấn đề nảy sinh khi tham gia các FTA thế hệ mới,

CHƯƠNG III: CƠ HỘI PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO SỰ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH VỀ LAO ĐỘNG TRONG CÁC FTA THẾ HỆ MỚI CỦA

VIỆT NAM

3.1. THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC KHI THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH VỀ LAO ĐỘNG TRONG CÁC FTA THẾ HỆ MỚI CỦA VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG TRONG CÁC FTA THẾ HỆ MỚI CỦA VIỆT NAM

3.1.1. Thuận lợi

Đối với người lao động, các yêu cầu về lao động trong TPP nếu được thực thi sẽ

đảm bảo quyền và nguyện vọng của người lao động bởi những quy định liên quan đến điều kiện làm việc, điều kiện nghỉ ngơi, chế độ đãi ngộ, tiền lương, cấm phân biệt đối xử... những quy định này sẽ góp phần cải thiện chất lượng lao động, nâng cao và đảm bảo đời sống cho người lao động.

- FTA là cơ hội để phát triển giáo dục nghề nghiệp: Tạo ra nhiều cơ hội trong việc hợp tác lẫn nhau giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; cơ hội học tập, bồi dưỡng, trao đổi nâng cao trình độ cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp; sẽ có thêm nhiều nguồn lực đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.v.v…

- Người học có nhiều cơ hội hơn trong học tập, tiếp cận với các chương trình đào tạo tiên tiến của nước ngoài và dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm việc làm sau quá trình học tập, bởi thị trường lao động không chỉ là thị trường trong nước mà còn cả thị trường rộng lớn của khu vực ASEAN. Văn bằng, chứng chỉ sau quá trình đào tạo của người học cũng được công nhận ở các nước trong khu vực, tạo điều kiện để dễ dàng được công nhận bởi các nước khác trên thế giới.

- Lợi thế lớn nhất của Việt Nam là lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. - Việt Nam sẽ trở thành điểm đến của dòng chảy đầu tư quốc tế, giúp tăng những dự án đầu tư mang tính tiên phong về công nghệ hoặc quy mô lớn giúp thu hẹp khoảng cách về năng suất lao động, tăng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, cùng với nâng cao trình độ quản lý, đào tạo nguồn nhân lực, góp phần tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động…

- Thu hút được lao động chất lượng cao từ các nước đến làm việc, bù đắp sự thiếu hụt lao động chất lượng cao.

- Năng suất lao động của Việt Nam sẽ tăng lên giúp cho nền kinh tế giảm khoảng cách so với nền kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới.

Mặt khác, nước ta đã có hệ thống luật pháp, chính sách, chủ trương chung về vấn đề lao động tương đối đầy đủ. Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thêm tư thực tiễn cuộc sống, đưa thêm những cái mới, điều chỉnh những bất cập trong hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành.

Thực tiễn phát triển đất nước, với lợi thế cơ cấu dân số vàng và nguồn nhân lực giá rẻ, có thể cạnh tranh và có nhiều cơ hội tham gia dịch chuyển lao động trong khu vực, đặc biệt là 12 nước tham gia TPP. Vì vậy, trong điều kiện thực tiễn, Việt Nam nếu biết tận dụng lợi thế này, chuẩn bị cho nguồn nhấn lực về mặt kỹ năng, nâng cao trình độ chuyên mn thì sẽ tạo ra năng suất lao động tốt hơn, tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn.

Hơn nữa, các tiêu chuấn về lao động và môi trường, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) mà TPP yêu cầu các nước tham gia phải tuân thủ sẽ là cơ hội để Việt Nam thực hiện và bảo đảm tốt hơn việc bảo vệ người lao động, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội, trong đó có vấn đề môi trường.

3.1.2. Thách thức

3.1.2.1. Từ góc độ Nhà nước

Thách thức về thiết chế trong bảo đảm thực thi các nghĩa vụ trong EVFTA

Về mặt nguyên tắc, tương tự như trong bất kỳ đàm phán FTA nào khác, “không một vấn đề nào được thỏa thuận cho tới khi mọi vấn đề được thỏa thuận” (nothing is agreed until everything is agreed), chưa ai có thể nói chính xác về các nội dung của EVFTA vào thời điểm này, khi mà đàm phán chưa kết thúc.

Mặc dù vậy, như đã đề cập, được thống nhất là một FTA thế hệ mới, EVFTA chắc chắn sẽ có mức độ cam kết mở cửa sâu, và với diện các vấn đề được điều chỉnh đa dạng, bao trùm nhiều lĩnh vực cả thương mại và phi thương mại, cả truyền thống lẫn hiện đại. Việc thực thi các cam kết của EVFTA tại Việt Nam, vì vậy, sẽ trải rộng

trên nhiều khía cạnh, liên quan tới nhiều lĩnh vực, đòi hỏi các biện pháp khác nhau, với số lượng các chủ thể liên quan lớn.

Trong bối cảnh đó, việc thiết lập và duy trì một (các) thiết chế nhằm bảo đảm thực thi đồng bộ và hiệu quả các cam kết tương lai trong EVFTA đứng trước những thách thức lớn, trong đó đặc biệt là:

- Thách thức trong thiết lập và vận hành hiệu quả các thiết chế theo yêu cầu “cứng” của EVFTA

Trong các FTA giữa EU và đối tác ký thời gian gần đây, có thể thấy có một số thiết chế phải thiết lập trên thực tế đã được quy định cứng (về mô hình, chức năng, lộ trình..) ngay trong nội dung cam kết FTA mà EU cũng như các đối tác liên quan bắt buộc phải triển khai trong quá trình thực thi cam kết. Các thiết chế này có thể là thiết

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) thực thi các quy định về lao động trong một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thuận lợi và thách thức (Trang 53)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(88 trang)