SÁCH NHÀ NƯỚC
Thứ nhất, Việt Nam đang và sẽ tiếp tục chú trọng xây dựng khung pháp lý về quản lý ngân sách nhà nước nói chung và chu trình ngân sách nhà nước nói riêng phù hợp với hệ thống ngân sách nhà nước được xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước theo cấu trúc đơn nhất. Theo quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam, mỗi cấp chính quyền là một cấp ngân sách là phù hợp với văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 2013. Theo đó, chính quyền địa phương được trao thẩm quyền quyết định các vấn đề của địa phương trong đó có vấn đề ngân sách địa phương và ngân sách nhà nước. Quy định này đã trao quyền cho chính quyền địa phương có nguồn thu riêng có khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương.
Để đảm bảo sự hoạt động hiệu quả của chu trình ngân sách nhà nước thì cần đổi mới quy trình NSNN nói chung và quy trình NSĐP nói riêng theo hướng tách bạch, rõ ràng. Hiện nay, quy trình ngân sách ở nước ta còn lồng ghép. Muốn bảo đảm tính độc lập tương đối của chính quyền địa phương trong việc lập, quyết định dự toán, phân bổ và phê chuẩn quyết toán NSĐP thì Quốc hội chỉ nên quyết định dự toán NSNN, quyết định phân bổ dự toán NSTW.
Đồng thời, hoàn thiện quy định về vị trí, vai trò của HĐND cấp tỉnh trong quy trình ngân sách, bảo đảm cho HĐND chủ động trong việc quyết định các vấn đề kinh tế-xã hội tại địa phương, quyết định và xây dựng NSĐP trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc thống nhất của nền tài chính quốc gia. Theo đó, cho phép HĐND cấp tỉnh ban hành một số loại định mức tiêu chuẩn phù hợp với khả năng NSĐP và điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng, quy định cụ thể và công khai tỷ lệ điều tiết từ các nguồn thu phân chia, số bổ sung giữa các cấp NSĐP.
Bên cạnh đó, sửa đổi cơ chế giao chỉ tiêu nhiệm vụ thu, chi cho các địa phương theo hướng do địa phương tự quyết định. Nếu các cấp ngân sách không lồng ghép với nhau, ngân sách từng cấp do Quốc hội, HĐND các cấp quyết định. Với mô hình không lồng ghép như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp ngân sách được quy định rõ ràng hơn, đơn giản hóa được các thủ tục trong công tác lập, chấp hành và quyết toán NSNN, mỗi cấp ngân sách có thời gian và điều kiện để xem xét chi tiết, kỹ lưỡng ngân sách cấp mình, tăng tính công khai, minh bạch của NSNN. Thứ hai, do ngân sách nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thực hiện thành công nhiệm vụ kinh tế – xã hội của đất nước hàng năm cũng như lâu dài, vì vậy Việt Nam có thể lựa chọn phương án lập dự toán NSNN gắn với hiệu quả hoạt động. Cách thức lập dự toán NSNN gắn với hiệu quả hoạt động là cơ chế cấp phát ngân sách cho khu vực công có sử dụng thông tin chính thức về hiệu quả hoạt động để gắn ngân sách với kết quả đầu ra nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này.
Thứ ba, chấp hành dự toán NSNN là việc hiện thực hóa các chỉ tiêu tài chính về thu, chi NSNN đã được ghi trong dự toán ngân sách hằng
năm. Hoạt động này gắn với quá trình hình thành, quản lý, sử dụng quỹ NSNN liên quan đến quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Vì vậy, Việt Nam cần tăng cường năng lực kiểm soát chấp hành thu, chi NSNN nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ với chi phí quản lý thấp; cùng với đó, Việt Nam cần tăng cường năng lực kiểm soát chi, ngăn ngừa những trường hợp sử dụng sai mục đích dự toán, vượt chi cùng các sai phạm khác.
Thứ tư, quyết toán ngân sách là hoạt động của tất cả các chủ thể có liên quan đến quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch NSNN trong năm ngân sách. Trong hoạt động này, Việt Nam cần chú trọng nguyên tắc công khai ngân sách nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân kiểm tra, giám sát quá trình phân bổ và sử dụng ngân sách, góp phần thực hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng phí, phát hiện và ngăn chặn kịp thời vi phạm trong lĩnh vực ngân sách.
Những kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thế giới về chu trình ngân sách đã, đang và sẽ tiếp tục là bài học quý báu giúp Việt Nam hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành có hiệu quả về chu trình ngân sách. Kết quả này sẽ góp phần quan trọng việc thực hiện thành công chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi lĩnh vực đưa Việt Nam lên một vị thế mới trên bản đồ của thế giới.
Thứ năm, tăng cường quản lý và đào tạo bồi dưỡng cán bộ trong việc thực hiện các chu trình NSNN đạt chất lượng. Bên cạnh những cải cách trong hoạt động quản lý NSNN và ứng dụng công nghệ thông tin thì đòi hỏi đội ngũ công chức quản lý thuế phải được bồi dưỡng nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công tác; Không ngừng nâng cao trình độ nguồn nhân lực cả về đạo đức và chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao trong quản lý và các chu trình NSNN nói chung phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Hơn nữa, tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ theo hướng chuyên môn hóa kỹ năng quản lý, có kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo đáp ứng các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và các chu trình NSNN.
Thứ sáu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tổ chức và quản lý chu trình NSNN. Ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý được xem như là một mục tiêu trọng tâm. Hiện đại hoá quản lý các chu trình NSNN theo hướng đơn giản về thủ tục hành chính, giảm thiểu thời gian và thủ tục. Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin điện tử tiên tiến vào quy trình quản lý chu trình NSNN với các phương thức tiến hành hiện đại, bảo đảm xử lý dữ liệu liên quan đến chu trình NSNN một cách chính xác, và minh bạch. Mặt khác, cần xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin theo phương châm năng lực quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển, đầu tư phải thiết thực, hiệu quả, không được lãng phí và đảm bảo công khai, rõ ràng, minh bạch.
Thứ bảy, đẩy mạnh sự lãnh đạo, chỉ đạo, của các cấp chính quyền và sự phối hợp của các ban ngành trong quá trình quản lý chu trình NSNN. Bên cạnh việc tập trung quản lý chặt chẽ hoạt động trong chu trình NSNN, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền. Đồng thời, tăng cường công tác phối hợp với các ban, ngành trên địa bàn để triển khai đồng bộ những chế độ, chính sách mới, theo dõi diễn biến tình hình sản xuất, kinh doanh trên địa bàn để phối hợp cùng các đơn vị liên quan giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc về cơ chế,
chính sách, tạo điều kiện quản lý chặt chẽ hoạt động ngân sách nhà nước, tạo nguồn thu ổn định, bền vững cho NSNN.
KẾT LUẬN
Ngân sách nhà nước luôn giữ vị trí quan trọng trong việc bảo đảm nguồn tài chính cho sự tồn tại cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Chính vì thế, bất kì một nhà nước nào trên thế giới đều quan tâm đến việc quản lý ngân sách nhà nước. Đặc biệt đối với Việt Nam, một đất nước đang phát triển, vẫn bị đánh giá là một trong những nước nghèo trên thế giới, quản lý tốt quỹ ngân sách nhà nước vốn hạn hẹp lại càng là một vấn đề nhức nhối.
Luật Ngân sách nhà nước với mục đích góp phần trong sạch, lành mạnh tài chính ngân sách nhà nước, quản lý tốt, có hiệu lực, hiệu quả ngân sách nhà nước ta. Chúng ta cần góp phần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về quốc toán ngân sách nhà nước nhằm mục đích quản lí ngân sách nhà nước đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và quá trình hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam ta hiện nay.
CÂU HỎI PHẢN BIỆN ĐỐI VỚI BÀI NGHIÊN CỨU
Câu 1: Trong bối cảnh dịch bệnh Covid còn nhiều phức tạp, trong 2 năm vừa qua, các hoạt động trong chu trình ngân sách nhà nước đã được triển khai như thế nào? Có đáp ứng được các yêu cầu về vừa phòng chống dịch, vừa phát triển – phục hồi kinh tế hay không? Trong năm 2022 này, chu trình ngân sách nhà nước cần triển khai theo hướng nào để phù hợp với bối cảnh hiện nay?
Câu 2: Một số doanh nghiệp kê khai xác định giá giao dịch liên kết theo phương pháp lợi nhuận chưa phù hợp, không lập hồ sơ xác định giá giao dịch liên kết (tỉnh Bình Dương); cá biệt, có trường hợp hạch toán vào chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế TNDN một số khoản không hợp lý, không có căn cứ, làm giảm lớn số thuế TNDN phải nộp vào NSNN… nhóm bạn có giải pháp nào cho tình trạng này?
Câu 3: Thời hạn quyết toán ngân sách là vào ngày 31/12. Tuy nhiên, hiện nay trong tình hình dịch bệnh rất nhiều cơ quan, cơ sở không đủ thời gian để sử dụng hết khoản tiền được chi tiêu từ ngân sách. Vậy theo các bạn, chúng ta có nên gia hạn thêm thời hạn nêu trên không không? Và đồng thời có cần phải điều chỉnh lại các tiêu chí để lập dự toán ngân sách cho năm sau không?
Câu 4: Trường hợp dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách chưa được phê duyệt nhưng Kho bạc nhà nước và cơ quan tài chính có thể tạm cấp kinh phí. Việc này có trái với các nguyên tắc và điều kiện chi ngân sách nhà nước không, vì sao?
Câu 5: Nhóm bạn hãy làm rõ vai trò của kiểm toán nhà nước trong các hoạt động liên quan đến chu trình ngân sách nhà nước. Đồng thời,
đánh giá vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước trong quá trình lập dự toán NSNN?
Câu 6: Một trong những căn cứ pháp lý cho bản lập dự toán ngân sách nhà nước mà Nhóm nêu ra là căn cứ vào tình hình thực hiện ngân sách các năm trước. Vậy, nhóm hãy chỉ ra mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước các năm trước với bản lập dự toán ngân sách? Nó tác động cụ thể như thế nào?
Câu 7: Trong phần II tại mục 2.1 có nêu "Lập dự toán ngân sách hàng năm có các đặc điểm: được thực hiện hàng năm vào trước năm ngân sách, thể hiện rõ sự tập trung quyền lực vào Quốc hội, có sự tham gia của nhiều chủ thể, có sự phân định thẩm quyền rõ ràng". Như vậy theo đặc điểm "thể hiện rõ sự tập trung quyền lực vào Quốc hội" có gây ra sự mất cân bằng, đối trọng quyền lực của các nhánh cơ quan quyền lực nhà nước không, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính rất cần thiết có sự độc lập, minh bạch? Tại sao?