Cử hành phụng vụ[64]

Một phần của tài liệu BỐI CẢNH VÀ DUYỆT THƯ TỊCH (Trang 47 - 52)

IV. CÁCH THỨC LOAN BÁO TIN MỪNG

3. Cử hành phụng vụ[64]

Trước hết, nhà thừa sai cần biết những đặc tính truyền giáo được hàm chứa trong các nghi thức cử hành phụng vụ, sau đây là nội dung các đặc tính này:

Mục đích của công việc mục vụ chính là dấu chỉ cho sự hiện diện và hành vi cứu độ của Chúa Phục sinh nên được thiết lập nơi mỗi cộng đoàn nhân loại. Ðiều

đó được gọi là "sự vun trồng Giáo Hội"[65]. Dấu chỉ này bao gồm: loan báo Lời Chúa và cử hành Mầu nhiệm Vượt qua, đặc biệt là nơi Bi tích Thánh Thể và các bí tích khác.

Thật ra, các hoạt động mục vụ luôn tập trung vào Mầu nhiệm Vượt Qua của Ðức Ki-tô, Ðấng đã chết, đã sống lại và truyền lệnh phải loan báo, cử hành và thông truyền mầu nhiệm này (Cv 22, 32-47). Việc cử hành mầu nhiệm này là trung tâm đem lại ý nghĩa cho mọi dấu chỉ hiến tế do Chúa Giê-su thiết lập được thành tựu trong phụng vụ. Cũng nhờ việc cử hành này mà Lời Chúa được lưu truyền với hiệu quả to lớn và mầu nhiệm cứu độ được hoàn tất.

Bằng việc cử hành phụng vụ, Cộng đồng Giáo Hội nhận ra đặc tính truyền giáo phổ quát:

Thật vậy, nhờ phụng vụ, nhất là trong Hiến Lễ Tạ Ơn, mà "công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện". Phụng vụ góp phần rất nhiều để giúp các tín hữu, qua cuộc sống mình, diễn tả và biểu lộ ho những người khác mầu nhiệm Chúa Ki-tô và bản tính đích thực của Giáo Hội chân chính. Ðồng thời, phụng vụ còn tăng cường sức lực cho người tín hữu cách lạ lùng để rao giảng Chúa Ki-tô và như vậy, phụng vụ vũng bày tỏ cho những kẻ bên ngoài thấy Giáo Hội như là dấu chỉ nêu cao trước mặt các dân nước, ngõ hầu con cái Thiên Chúa đang tản mác được qui tụ nên một cho tới khi thành một đàn chiên theo một chủ chiên.

Giáo Hội là bí tích biểu lộ sự hiện diện của Chúa Ki-tô, là sự biểu lộ vương quyền của Người qua phụng vụ. Công cuộc cứu chuộc được Chúa Ki-tô, Ðấng cứu độ, hoàn tất và được tiếp nối trong Giáo Hội ngang qua những dấu chỉ phụng vụ: Vì vậy, như Chúa Ki-tô được Chúa Cha sai đi thế nào, chính Người cũng sai các môn đệ đầy tràn Thánh Thần đi như vậy, để trong khi rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo, không những các ngài loan báo Con Thiên Chúa, nhờ cái chết và phục sinh của Người, giải thoát chúng ta khỏi quyền lực Xa-tan và sự chết, dẫn đưa chúng ta vào Nước Chúa Cha, nhưng còn để các ngài thực thi công việc cứu chuộc mà các ngài đã loan báo, nhờ Hiến Tế và các bi tích, trung điểm cách toàn thể đời sống phụng vụ.

Cộng đoàn phụng vụ, cộng đoàn thuyết giáo. Ðặc tính truyền giáo trong phụng vụ

Cộng đoàn Ki-tô giáo trở thành dấu chỉ trước mặt các dân nước, đặc biệt, khi cộng đoànnày cử hành Mầu Nhiệm Cứu Ðộ, đón nhận Mầu Nhiệm bằng đức tin, qua đó,cộng đoàn được biến đổi thành một cộng đoàn sống đức ái:

Phụng vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Giáo Hội, đồng thời à nguồn mạch tuôn tràn mọi năng lực của Giáo Hội. Thực vậy, các công lao khó nhọc trong việc tông đồ đều nhằm làm cho mọi người trở nên con cái Thiên Chúa nhờ đức tin và phép rửa, cùng nhau qui tụ ngợi khen Chúa giữa lòng Giáo Hội, thông phần vào Hiến Tế và ăn tiệc của Chúa (SC.10).

Việc huấn luyện một cộng đoàn có tinh thần truyền giáo thì cũng giống như việc huấn luyện một cộng đoàn truyền giáo: "Vì phụng vụ là nguồn mạch trước

tiên và thiết yếu, từ đó các tín hữu múc lấy tinh thần Ki-tô giáo đích thực. Vì thế, nhờ việc huấn luyện thích hợp, các chủ chăn phải nhiệt tâm tìm được điều trên trong mọi hoạt động mục vụ" (SC. 14).

Phụng vụ gồm một loạt các dấu chỉ chuyển hành động và sự hiện diện hiến tế của Ðức Ki-tô Phục Sinh vào trong cộng đoàn Giáo Hội. Công cuộc cứu độ được hoàn tất nhờ việc loan báo Lời Chúa, cử hành và thông truyền mầu nhiệm Vượt Qua. "Ðể chu toàn công việc lớn lao ấy, Chúa Ki-tô hằng hiện diện trong Giáo Hội,

nhất là trong các hoạt động mục vụ" (SC.7). Sự hiện diện của Chúa Ki-tô được thể

hiện qua việc cử hành Bí tích Thánh Thể, các bí tích khác, việc loan báo Lời Chúa và các buổi cầu nguyện chung.

Giáo Hội là Bí tích cứu độ phổ quát (AG.1), nhất là khi Giáo Hội sống và cử hành mầu nhiệm vinh quang của Chúa Ki-tô trên trần gian như là một sự chuẩn bị cho vinh quang phổ quát và muôn thuở của Người. Do đó, đặc tính truyền giáo của phụng vụ là sự thể hiện chức năng tư tế của Chúa Ki-tô" (SC. 7), Người là Ðấng trung gian phổ quát. Trong công cuộc cứu độ, Chúa Ki-tô luôn kết hợp Giáo Hội với chính Người. Giáo Hội là hiền thê yêu dấu của Chúa Ki-tô. Nhờ việc cử hành phụng vụ, Giáo Hội trở nên hiện thân của Mầu Nhiệm Nhập Thể. "Bởi nhập thể, một cách nàoo đó Con Thiên Chúa đã kết hợp với từng người" (GS. 22).

Nếu Giáo Hội muốn đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa trong công cuộc truyền giáo, thì điều kiện cần thiết là Giáo Hội cần phải được canh tân. "Vì toàn

thể Giáo Hội là truyền giáo và vì công việc rao giảng Tin Mừng là nhiệm vụ căn bản của Dân Chúa, nên thánh Công Ðồng mời gọi mọi người canh tân tự thâm

tâm mình, để khi đã tích cực ý thức trách nhiệm riêng của mình trong việc truyền bá Tin Mừng, mọi người góp phần vào công cuộc truyền giáo nơi muôn dân" (AG.

35).

Hoạt động của Thần Khí luôn canh tân phụng vụ để làm cho Giáo Hội mang tính truyền giáo. "Lòng nhiệt thành cổ võ và canh tân phụng vụ thánh đang được

xem như một dấu chỉ các ý định quan phòng của Thiên Chúa trong thời đại chúng ta, và như một sự thăm viếng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội. Sự kiện này đem lại một điểm nổi bật cho đời sống Giáo Hội, cũng như cho mọi cách thế suy tư và hoạt động đầy tinh thần đạo giáo của thời đại chúng ta" (SC. 43). Việc chọn

lựa một nền phụng vụ như thế ngay giữa các nền văn hoá khác sẽ tạo ra một cộng đoàn Giáo Hội non trẻ mang tính truyền giáo" (SC. 37).

Thật ra, cộng đoàn khởi đầu sứ vụ truyền giáo của mình ngay từ ngày cộng đoàn lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, sau khi đã tin vào Tin Mừng. Qua việc lắng nghe Lời Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể, cộng đoàn trở nên một cộng đoàn lãnh nhận mệnh lệnh truyềngiáo của Chúa Giê-su (x. Mt 16,15). Ðó cũng chính là hình ảnh Giáo Hội sơ khai (x. Cv 2, 42; 4, 29.31).

Nhờ sự hiện diện của Chúa Ki-tô ngang qua các cử chỉ cử hành trong phụng vụ, đặc biệt là nhờ Lời của Người, việc cử hành Bí tích Thánh Thể và các bí tích khác, các ơn gọi truyền giáo được lớn mạnh (x. Cv 13,4). Từ đó cũng khơi lên sự khao khát loan báo cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su cho tới khi Người đến lại (x. 1Cr 11,26).

Mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành trong Bí tích Thánh Thể, trong các bí tích khác, trong năm phụng vụ và trong các buổi cầu nguyện chung. luôn luôn mang đậm tính truyền giáo. Chúa Giê-su đến để trao ban sự sống của Người như là giá chuộc cho muôn người" (x. Mt 20,28).

Thật sự qua việc cử hành phụng vụ, tín hữu có thể sống căn tính truyền giáo của mình được trọn vẹn hơn. Bởi vì, chính trong phụng vụ mà tín hữu tiếp cận với dấu chỉ đầy hiệu quả biểu lộ tính truyền giáo.

Trong phụng vụ,Chúa Ki-tô, Vị Tư Tế hiện diện với tư cách là Ðấng trung gian phổ quát (x. Dt 7,25). Ðó là hành động cứu độ bắt đầu từ khi Người nhập thể trong lòng Mẹ Ma-ri-a (x. Dt 10,5-7), hành động này được tiếp tục trong Giáo Hội, ngang qua dấu chỉ trong phụng vụ là cầu nguyện và hiến tế.

Hoạt động tông đồ phải nhắm đếnviệc hướng cộng đoàn tín hữu cử hành Mậu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Ki-tô, đồng thời việc cử hành này phải là nguồn mạch của mọi công cuộc loan báo Tin Mừng (SC. 10).

Việc thiết lập Giáo Hội cũng đồng nghĩa với việc tạo lập những dấu chỉ hành động và sự hiện diện hiến tế của Chúa Ki-tô Phục Sinh trong cộng đoàn nhân loại, qua các chức năng ngôn sứ, vương đế và tư tế. Tất cả những dấu chỉ này được liên kết chặt chẽ với nhau trong phụng vụ, vì trong đó, mầu nhiệm Chúa Ki-tô được loan báo, được hiện diện và thông truyền. Dấu chỉ của sự trưởng thành và mức độ nền tảng của cộng đoàn dựa vào tinh thầntham dự phụng vụ của cộng đoàn đó.

Ngay từ những dòng đầu của Hiến chế về Phụng Vụ Thánh, Công Ðồng Va-ti-ca- nô II đã nhấn mạnh đến mục đích của việc loan báo Tin Mừng như sau: "Thánh

Công Ðồng chú tâm phát huy đời sống Ki-tô giáo ngày càng tốt đẹp hơn nơi các tín hữu, thích ứng những định chế nào có thể thay đổi cho hợp với những nhu cầu thời đại chúng ta,cổ võ những gì khả dĩ góp phần hiệp nhất mọi người đã tin theo Chúa Ki-tô, và tăng cường những gì hỗ trợ cho việc mời gọi mọi người vào lòng Giáo Hội"

(SC. 1). Ðể duy trì mục đích này, điều chính yếu là canh tân và thăng tiến nền phụng vụ".

Lệnh truyền của Chúa Ki-tô về sứ vụ phổ quát bao hàm lời hứa người sẽ hiện diện: "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Ðặc biệt, sự hiện diện này được hoàn tất trong việc cử hành phụng vụ (SC. 7).

Trong khi cử hành phụng vụ, cộng đoàn tín hữu trở thành cộng đoàn truyềngiáo nhờ lắng nghe Lời Chúa, cử hành Mầu Nhiệm Cứu Ðộ, dấn thân thực thi đức ái. Nói cách khác, một cộng đoàn phụng vụ là một cộng đoàn biết lắng nghe, cầu nguyện, cử hành phụng vụ và sống yêu thương. Cùng với Mẹ Ma-ri-a trong phòng Tiệc Ly, Giáo Hội luôn đầy tràn Thánh Thần, sẵn sàng làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh nơi mọi dân tộc (x. Cv 2,32).

Tiếp đến là việc hội nhập các cử hành vào phong tục văn hoá Việt Nam. Ðây là một quá trình phức tạp và cần có thời gian. Hiện nay, việc đốc nhang đã được đưa vào phụng vụ và các trang phục, đồ thánh đuợm nét văn hoá Việt Nam. Chẳng hạn: dây Stola bằng gấm, thêu hoa văn Á Ðông, áo lễ thêu hình ảnh cây trúc. Cho nên, nhà thừa sai phải khôn ngoan tinh tế khi muốn cử hành phụng vụ mang yếu tố văn hoá Việt Nam

Theo Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, huấn giáo là quảng diễn chân lý đức tin một cách có hện thống để hướng dẫn và giáo dục đức tin của những người chuẩn bị lãnh các bí tích nhập đạo và những người Công Giáo đã chịu phép Thánh Tẩy. Tuy nhiên, ở phần này xin được giới hạn trong việc bàn đến việc huấn giáo cho người dự tòng.

a. Ðối tượng

Ðể huấn giáo có hiệu quả cao, trước hết ta cần phân tích kỹ về đối tượng. Ở Việt Nam, để thuận tiện cho việc giảng dạy trong khi huấn giáo, xin tạm chia ra hai hạng người: người nghèo bình dân và giới trí thức. Cách phân chia này dựa vào những đặc tính riêng biệt của mỗi thành phần.

Trong xã hội đầy biến chuyển như Việt Nam, người nghèo dễ bị tổn thương bởi các biến chuyển xã hội, và có khuynh hướng thu mình lại trong hiện tại, vào cái trực tiếp. Ðời sống họ bấp bênh nên họ dễ đánh mất căn tính và dễ chạy theo các giáo phái để tìm căn tính cho mình. Họ rất nhạy cảm với những giá trị cụ thể: hoà bình, công lý, tình bạn, sự chung thủy. Những người nghèo di dân từ vùng quê lên thành thị dễ bị phai nhạt giá trị truyền thống gia đình. Trong tâm thức tín ngưỡng Việt Nam, người bình dân luôn khát vọng giá trị thiêng liêng, gần gũi với hình ảnh "ông Trời" , luôn hướng về sự hoà điệu và an bình nội tâm.

Riêng giới trí thức Việt Nam cũng mang những nét chính như người bình dân, và còn có một số điểm riêng. Họ bị ảnh hưởng của chủ nghĩa Duy Khoa Học, nên có óc thực dụng, cụ thể, khó đón nhận những giá trị thuộc lãnh vực siêu việt. Họ có cảm tưởng cho khoa học là chìa khóa giải đáp hết mọi khát vọng của con người.

Ở Việt Nam, người nghèo bình dân chiếm đa số, bởi đó, nhà thừa sai phải lưu tâm đặc biệt đến phương pháp huấn giáo cho họ. Một học giả, E.Luches, nhận định:

Nếu huấn giáo là một cơ may để loan báo Tin Mừng cho giới bình dân, thù huấn giáo được thực hiện trong các môi trường bình dân là một cơ may đối với Giáo Hội. Một Giáo Hội không quan tâm loan báo Tin Mừng cho giới bình dân sẽ đánh mất sức mạnh thúc đẩy Giáo Hội luôn phải xét lại ngôn ngữ của mình. Huấn giáo trong các môi trường bình dân không thể đóng khung trong các hình thức khuôn sáo, nhưng cũng góp phần làm phát triển toàn thể Giáo Hội.

Một phần của tài liệu BỐI CẢNH VÀ DUYỆT THƯ TỊCH (Trang 47 - 52)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(61 trang)
w