Thực trạng về hiệu quả cho vay các DNVVN tại SCB Hà Nội

Một phần của tài liệu 1 Nâng cao hoạt đông cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội  (Trang 61)

2.4.1 Dư nợ

Bảng 4: Dư nợ DNVVN trên tổng dư nợ

Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ % 2006 Tỷ lệ % 2007 Tỷ lệ %

Tổng dư nợ 111,993.49 100% 391,242 100% 1,051,437 100% Dư nợ DNVVN 105,945.84 94.6% 354,052 90.5% 651,176 61.9% Doanh số thu nợ DNVVN 0.00 0.00 336,703.45 95.1% 648,311 99.56%

- Năm 2007 dư nợ cho vay DNVVN là 61.9% giảm 28.6% so với năm 2006 (là 90.5%). Nguyên nhân dư nợ cho vay DNVVN thấp và giảm so với năm 2006 là:

Cuối năm 2007, ngân hàng Nhà nước dự kiến ra quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối các NHTM nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng mục tiêu kìm chế lạm phát( theo Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN). Do đó, SCB Hà Nội chủ động giảm doanh số cho vay DNVVN. Đồng thời chi nhánh tăng doanh số dư nợ cho vay sang đối tượng khách hàng cá nhân.

Trước mắt do là một ngân hàng trẻ mục tiêu của ngân hàng là mô hình ngân hàng bán buôn khi đã đi vào ổn định ngân hàng sẽ dần chuyển sang mô hình ngân hàng bán lẻ.

- Doanh số thu nợ DNVVN năm 2006 là 95.1% sang năm 2007 tăng lên đến 99.56% . Việc doanh số thu nợ tăng do các khoản cho vay đến hạn trả và các khoản nợ xấu, nợ quá hạn đã đòi được, cho nên doanh số năm 2007 tăng đáng kể.

_ Xét theo thời hạn tín dụng

Tín dụng đối với các DNVVN có thể được phân loại thành các nghiệp vụ cho vay đó là: nghiệp vụ cho vay ngắn hạn và nghiệp vụ cho vay trung và dài

hạn. Các DN vay vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng yêu cầu vốn lưu động bị thiếu trong quá trình SXKD. Hình thức cho vay chủ yếu là tín dụng ngắn hạn. Các doanh nghiệp vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư vào trang thiết bị, cơ sở vật chất nhằm hiện đại hoá quy trình sản xuất và công nghệ.

Bảng 5: Dư nợ DNVVN phân theo thời hạn tín dụng

Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ 2006 Tỷ lệ 2007 Tỷ lệ Dư nợ DNVVN 105,993.49 100% 354,052 100% 651,176 100% Ngắn hạn 22,364.63 21.1% 136,523 38.56% 380,938 58.5% Trung và dài hạn 83,628.86 78.9% 217,529 61.44% 270,238 41.5%

Trong năm 2005 dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dư nợ cho vay DNVVN ( 21.1%). Điều này chưa phù hợp với mô hình hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì các khoản vốn tín dụng ngắn hạn nhằm cung ứng nhu cầu về vốn lưu động cho các DN, phục vụ quá trình SXKD như mua nguyên vật liệu, chi trả lương, các khoản vay cho mục đích thương mại và du lịch … với đặc điểm thu hồi vòng quay vốn nhanh. Tuy nhiên, tỷ trọng này đã tăng lên đáng kể năm 2007 là 58.5%. Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn năm 2005 là 78.9% và đã giảm xuống mức 41.5% cho thấy nhu cầu đầu tư về máy móc, trang thiết bị, đổi mới công nghệ, nhà xưởng của các DNVVN vẫn là rát cần thiết, phù hợp với nhu cầu của việc hội nhập.

2.4.2 Chỉ tiêu về nợ quá hạn

_ Đây là những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá rủi ro cũng như hiệu quả cho vay của các NHTM. Tỷ lệ nợ quá hạn cao hay thấp sẽ cho biết quá trình cho vay có tăng trưởng lành mạnh hay không. Một ngân hàng nếu có doanh số cho vay cao, tổng dư nợ cho vay lớn nhưng khả năng thu hồi vốn thấp (tức tỷ lệ nợ quá hạn cao) thì hoạt động cho vay vẫn chưa thể coi là hiệu quả hơn

việc doanh số cho vay có giảm, tổng dư nơ cho vay thấp nhưng khả năng thu hồi vốn cao (tỷ lệ nợ quá hạn thấp). Vì vậy để xác định hiệu quả cho vay của một ngân hàng trước hết cần xem xét đến tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ cho vay. Bảng 6: Nợ quá hạn DNVVN Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng dư nợ DNVVN 105,993.49 354,052 651,176 Nợ quá hạn 0.00 17,348.55 1,758 Tỷ lệ (%) 0.00 4.9% 0.27% Nợ khó đòi 0.00 0.00 1,107 Tỷ lệ(%) 0.00 0.00 0.17%

Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ DNVVN năm 2007 giảm mạnh so với năm 2006. Tỷ lên nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay DNVVN là 0.17%. Đây là một tỷ lệ rất tốt so với hệ thống NHTM ở Việt Nam. Đạt được kết quả này là do trong năm 2007, ngân hàng đã đề ra kế hoạch cụ thể cho hoạt động cho vay doanh nghiệp là tiếp tục mở rộng doanh số hoạt động cho vay nhưng phải tập trung vào giải quyết các khoản nợ quá hạn, tích cực kiểm tra, giám sát các khách hàng để đảm bảo thu hồi được nợ.

Về nợ khó đòi, thực hiện chỉ đạo của Giám đốc SCB Hà nội, ban lãnh đạo chi nhánh đã quan tâm và đề ra các biện pháp tích cực, cụ thể nhằm đẩy mạnh thu nợ xấu, nợ quá hạn như giao chỉ tiêu thu nợ cho từng phòng, từng cán bộ tín dụng thường xuyên báo cáo hàng tháng tình hình thực hiện đề ra các giải pháp tiếp theo, quan tâm chú trọng tới tiền lương, thi đua khen thưởng đối với cá nhân và tập thể đạt thành tích trong công tác thu hồi nợ quá hạn nên đã có tác động tốt tới kết quả thu nợ.

Bảng 7: Nợ quá hạn cho vay DNVVN theo thời hạn tín dụng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ % 2006 Tỷ lệ % 2007 Tỷ lệ % Tổng nợ quá hạn DNVVN 0.00 0.00 17,348.55 100% 2,865 100% Ngắn hạn 0.00 0.00 3,330.92 19.2% 1,761.97 61.5% Trung và dài hạn 0.00 0.00 14,017.63 80.8% 1,103.03 38.5% Nhìn vào bảng trên, ta thấy tỷ trọng nợ quá hạn theo thời hạn tín dụng trong 3 năm qua có sự thay đổi rõ rệt. Tỷ trọng nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn tăng, tỷ trọng của các khoản vay trung và dài hạn lại giảm mạnh từ

80.8% (năm 2006) còn 38.5% (năm 2007). Nguyên nhân là do từ năm 2007 Chi nhánh bắt đầu thực hiện việc xử lý các khoản nợ phân nhóm 3 ,nhóm 4 đồng thời đề ra những giải pháp tích cực, cụ thể nhằm thu hồi nợ xấu, nợ đã xử lý.

Đối với hoạt động của ngân hàng thì việc chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn là điều đương nhiên, ngân hàng có chấp nhận rủi ro thì mới thu được lợi nhuận, mà rủi ro tín dụng là điều tất yếu xảy ra ở bất kỳ một ngân hàng nào. Các ngân hàng không thể loại trừ nó ra khỏi hoạt động của mình, tuy nhiên phải tìm mọi cách để khống chế nó ở mức thấp nhất có thể chấp nhận được.

2.4.3 Thu nhập từ cho vay DNVVN

Từ năm 2007 Chi nhánh thực hiện việc xử lý các khoản nợ phân nhóm 3,nhóm 4, do đó chi phí do trích lập dự phòng tăng lên. Trong năm 2007 Chi nhánh có lãi 44,427 triệu đồng.

2.5 Đánh giá về hiệu quả cho vay DNVVN tại SCB Hà Nội2.5.1 Những thành quả đạt được 2.5.1 Những thành quả đạt được

Trong năm 2007, việc cho vay DNVVN đã đạt được những thành công đáng kể. Tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm xuống 0.17%, đây là một chỉ tiêu quan trọng chứng minh rằng chất lượng cho vay DNVVN tại SCB Hà nội đã tăng lên trong những năm qua. Ngân hàng đã tập trung vào việc phân loại các khoản nợ để có những biện pháp cụ thể đối với từng loại nợ và từng đối tượng khách hàng. Cùng với quá trình phân loại nợ, Ngân hàng đã thực hiện đầy đủ về trích lập dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của SCB Hà nội nên tổn thất từ cho vay DNVVN được kiểm soát.

Thị trường DNVVN là thị trường mà ngân hàng TMCP Sài Gòn lựa chọn để đầu tư phát triển trong thời gian tới. Tuy xâm nhập vào thị trường này chưa lâu, nhưng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã phần nào góp phần vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh của DNVVN.

2.5.2 Những hạn chế và nguyên nhân

2.5.2.1 Những hạn chế còn tồn tại

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động cho vay DNVVN tại SCB Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế, chất lượng hoạt động cho vay đối với DNVVN chưa cao. Đây là những khó khăn mà ngân hàng cần phải đối mặt và cần phải có biện pháp khắc phục.

- Dư nợ tín dụng đối với DNVVN còn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng. Trong khi DNVVN đang ngày càng phát triển, thị trường hoạt động tín dụng đối với các DNVVN là rất lớn và có nhiều tiềm năng phát triển. Các DNVVN hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực thương mại,

dịch vụ do đó nhu cầu về nguồn vốn tín dụng của ngân hàng là rất lớn nhưng vấn đề là vẫn chưa tiếp cận được.

- Về chất lượng tín dụng, Ngân hàng đã từng bước xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động của quản lý tín dụng nhưng tỷ lệ nợ quá hạn đối với các DNVVN cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế vẫn tồn tại, phản ánh chất lượng tín dụng của Ngân hàng chưa thật đảm bảo. Cho vay đối với các DNVVN vẫn chứa đựng nhiều rủi ro vì họ có vốn chủ sở hữu nhỏ bé, kinh nghiệm và trình độ quản lý chưa cao.

- Thủ tục cho vay đối với DNVVN còn nhiều ràng buộc như: phụ thuộc vào tài sản thế chấp, vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Về tài sản thế chấp, thực tế phần lớn tài sản đảm bảo của doanh nghiệp là đất đai, nhà xưởng lại chưa có giấy tờ hợp lệ để hoàn thiện thủ tục thế chấp ở ngân hàng. Thông tin hai chiều giữa Ngân hàng và khách hàng còn chưa đầy đủ. Phía Ngân hàng, việc thu thập, khai thác, tìm hiểu thông tin về khách hàng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thông tin về tình hình tài chính của khách hàng, tình hình tiêu thụ sản phẩm… do đó Ngân hàng còn dè dặt trong việc mở rộng cho vay đối với DNVVN. Phía khách hàng, họ chưa sẵn sàng cung cấp những thông tin cần thiết cho Ngân hàng để ngân hàng có thể đưa ra quyết định cho vay, thậm chí còn che đậy thông tin không tốt về mình.

- Khả năng thẩm định dự án của Ngân hàng chưa cao, trình độ xây dựng dự án của doanh nghiệp cũng không tốt. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng lập dự án mà phải đi thuê, nên tính khả thi không cao, dẫn đến khoản vay không có khả năng thu hội, từ đó làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn.

2.5.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế

Cũng giống như các ngân hàng thương mại nói chung, trước đây thường tập trung vào các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước vì vậy khi chuyển sang các DNVVN ngân hàng có những chính sách tín dụng chưa hợp lý. Mặc dù hiện nay đã có những thay đổi trong cách nhìn nhận về DNVVN nhưng Ngân hàng vẫn có tâm lý thận trọng trong vấn đề cho vay đối với các doanh nghiệp này. Quan điểm tín dụng của SCB Hà Nội là mở rộng tín dụng trên cơ sở chất lượng tín dụng được đảm bảo.

Tài sản đảm bảo là vấn đề được đặc biệt quan tâm trong quá trình xét duyệt cho vay. Các quy định về tài sản đảm bảo là những trở ngại lớn nhất mà các DNVVN khó vượt qua được. Đối với DNVVN phần lớn phải có tài sản thế chấp, hoặc cầm cố tương đối an toàn, có giá trị, có tính thị trường thuộc sở hữu của doanh nghiệp hay ban lãnh đạo doanh nghiệp. Có những DNVVN có khả năng thế chấp tài sản nhưng cũng không được vay vốn ngân hàng vì giá trị khoản vay tính trên giá trị tài sản đảm bảo tuỳ thuộc vào loại tài sản đảm bảo khoảng 60% đến 80%. Đây là quy định gây khó khăn cho các DNVVN khi có nhu cầu về vốn lớn hơn giá trị tài sản thế chấp.

Trong quá trình phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như phương án, dự án đầu tư, Ngân hàng mới chỉ tiến hành đơn giản sử dụng biện pháp so sánh, phân tích các chỉ số đơn giản. Ngoài ra Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình làm hợp đồng cầm cố, thế chấp với khách hàng, nhất là vấn đề liên quan đến định giá tài sản đảm bảo đặc biệt là những tài sản là bất động sản.

- Chất lượng cán bộ tín dụng chưa cao:

Cán bộ tín dụng chính là người chịu trách nhiệm trong việc ra quyết định có cho vay hay không, do đó chất lượng cán bộ tín dụng ảnh hưởng lớn đến chất lượng của khoản vay. Số lượng cán bộ tín dụng của Ngân hàng còn ít,

chưa đáp ứng kịp với quá trình phát triển. Công tác thẩm định khách hàng còn gặp nhiều khó khăn, sự phân tách chức năng bộ phận trong mô hình tín dụng chưa rõ ràng. Khối lượng công việc đối với một cán bộ tín dụng quá nhiều, trong khi yêu cầu thời gian giải quyết hồ sơ nhanh, dẫn đến chất lượng làm việc không đảm bảo.

Đối với lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp, đôi khi cán bộ tín dụng không hiểu biết cặn kẽ về cách thức hoạt động, hệ thống thiết bị cần thiết nhất là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng đặc thù của ngành. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kiểm tra, kiểm soát trong quá trình vay vốn cũng như chất lượng tín dụng của Ngân hàng.

SCB Hà nội chưa xây dựng được chiến lược marketing rõ ràng để tiếp thị, thu hút khách hàng. Hình thức tiếp thị khách hàng chủ yếu là tìm đến các doanh nghiệp trực tiếp để giới thiệu sản phẩm, dịch vụ của mình do đó tốn nhiều thời gian và chi phí. Còn các DNVVN chưa tìm thấy được lợi ích gia tăng khi đến với dịch vụ của ngân hàng ngoài thái độ phục vụ nhiệt tình của cán bộ. Sản phẩm dịch vụ chưa có sự khác biệt so với các ngân hàng khác, lãi suất chưa hấp dẫn. Hệ thống công nghệ thông tin và mạng lưới chi nhánh chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng như hệ thống Smart Bank với đường truyền quá chậm để tạo lập được một báo cáo cán bôn tín dụng thường phải mất rất nhiều thời gian. Vấn đề công nghệ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là nguồn vốn tự có của ngân hàng còn thấp, chưa đáp ứng được nguồn vốn cần thiếp đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại hoá của ngân hàng.

- Nguyên nhân từ phía nhà nước:

Hiện nay nhà nước đang có chủ trương khuyến khích các DNVVN phát triển, nhưng công tác quản lý đối với loại hình doanh nghiệp này còn nhiều

hạn chế. Tình trạng DNVVN phát triển tràn lan với số lượng ngày càng nhiều nhưng không hiệu quả. Hệ thống doanh nghiệp chưa cung cấp được thông tin đầy đủ, các thông tin chỉ mang tính chất chung chung, không cụ thể và không được cập nhật thường xuyên do đó cơ quan quản lý không nắm được số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động và lý do ngừng hoạt động. Chính sự phát triển nhanh quá về số lượng trong khi bộ máy quản lý không kiểm soát được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, dẫn đến nhiều DNVVN làm vỏ bọc cho các hoạt động phi pháp, lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng…

Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như hoạt động của các DNVVN chưa đồng bộ, thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể. Các văn bản liên quan đến hoạt tín dụng ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với tình hình thực tế. Theo quy định hiện hành thì khi các doanh nghiệp sử dụng các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh rất khó khăn trong việc xử lý các thủ tục như: đăng ký quyền sở hữu quyền tài sản, đăng ký giao dịch đảm bảo, xác định giá trị tài sản thế chấp nhất là bất động sản… Vấn đề trích lập và phân loại rủi ro chưa đảm bảo được tính an toàn cho ngân hàng, trích lập dự phòng mới chỉ dựa vào thời hạn tín dụng. Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện

Một phần của tài liệu 1 Nâng cao hoạt đông cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội  (Trang 61)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(85 trang)
w