2 .1.7 Đặc điểm dinh dưỡng
4.2.3 Năng suất và tỉ lệ sống
Bảng 4.5: Năng suất và tỷ lệ sống của mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng
lúa
Ruộng nuôi FCR Năng suất (kg/ha) Tỷ lệ sống (%)
Ruộng 1 2,1 1.250 28 Ruộng 2 1,9 1.430 29 Ruộng 3 1,9 1.145 23 Ruộng 4 2 1.340 27 Ruộng 5 2 1.070 22 Ruộng 6 1,9 1.348 28
Qua kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ sống trung bình của tôm nuôi ở các ruộng dao động từ 22 - 29%, cụ thể tỉ lệ sống ở ruộng 1 là 28%, ruộng 2 là 29%, ruộng 3 là 23%, ruộng 4 là 27%, ruộng 5 là 22%, ruộng 6 là 28%. Kết quả này tương tự với
kết quả báo cáo về tỉ lệ sống của Nguyễn Hữu Nam (2005) tôm nuôi bán thâm canh trong ao đất mật độ 6 – 10 con/m2 tỉ lệ sống 28 ± 21 % và cũng khá phù hợp
nghhiên cứu về tỉ lê sống của Nguyễn Thị Ri (2006) từ 10 – 39%.
Kết quả trình bày ở bảng 4.4 còn cho thấy trong 6 ruộng nuôi thì ở ruộng 2 có năng suất cao nhất là 1.430 kg/ha với hệ số tiêu tốn thức ăn là FCR 1:1,9 kế đến
là ruộng 6 năng suất đạt 1.348 kg/ha với FCR 1:1,9, ruộng 4 năng suất đạt 1.340 kg/ha có FCR 1:2, ruộng 1 đạt 1.250 kg/ha có FCR 1:2,1, ruộng 3 đạt năng suất
1.145 kg/ha có FCR 1: 1,9 và thấp nhất là ruộng 5 năng suất chỉ đạt 1.070 kg/ha
với FCR 1:2.
Kết quả thực nghiệm trên năng suất thu được trung bình từ 1.070 -1.430 kg/ha
cao hơn năng suất thu được của Nguyễn Thanh Phương và ctv (2001) từ mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa là 750 – 800 Kg/ha, và tương đương với nuôi
tôm càng xanh ở Nam Định kết quả đạt được 1.583 Kg/ha (Chu Thị Thơm và ctv,
2005).
Sự khác biệt về năng suất tôm nuôi ở ruộng 2 cao hơn so với ruộng 5 là do ruộng
nuôi trong quá trình chuẩn bị cải tạo chưa tốt, cụ thể là trong ruộng nuôi còn nhiều cá tạp điều làm cho tôm bột trong quá trình ương bị hao hụt khá nhiều, khi
41
chuyển sang nuôi thương phẩm kết quả thu hoạch tôm tỉ lệ sống thấp hơn so với
các ruộng khác. Tuy nhiên so sánh với tôm nuôi trong mô hình tôm lúa luân canh
ở một số địa phương khác như tỉnh An Giang, mật độ thả 8 – 15 con/m2, đạt năng
suất dao động từ 650 – 1.500 kg/ha, bình quân 1.100 kg/ha. Trong khi đó ở thành phố Cần Thơ, năng suất tôm nuôi được tại huyện Ô Môn năm 2004 đạt cao nhất
là 850 kg/ha và bình quân từ 3 ruộng thực nghiệm đạt 672 kg/ha (Trần Thanh Hải
và ctv, 2004). Đối với tỉnh Long An, trong ruộng lúa luân canh, mật độ 10
con/m2, cho năng suất tôm đạt từ 525 – 818 kg/ha (Long và ctv, 2005) cho thấy năng suất tôm nuôi vào mùa nghịch ở huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp dao động
từ 1.070 – 1.430 kg/ha cao hơn so với các địa phương khác. Nhưng kết quả thực
nghiệm lại có năng suất thấp hơn so với kết quả thực nghiệm của Ngô Bá Quốc
nuôi tôm càng xanh luân canh vào mùa lũ (2006) đạt 1.177 – 2.043 kg/ha. Điều
này có thể giải thích là do nuôi tôm vào mùa lũ môi trường nước tương tự như điều kiện ngoài tự nhiên, đồng thời trong quá trình nuôi có sử dụng thức ăn tươi
sống do đó tôm nuôi tăng trưởng nhanh và phát triển tốt.