Ngoài ra, Nhà nước cũng cần quan tâm đến lợi ích tinh thần của những người làm nghiên cứu, phát minh và ứng dụng khoa học công nghệ Do đó, cần có chế độ ưu đãi nhân tài có cống hiến quan trọng cả

Một phần của tài liệu Vai trò của khoa học công nghệ trong tiến trình CNH-HĐH ở việt nam (Trang 28 - 29)

trong và ngoài nước, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích cán bộ khoa học làm việc ở vùng sâu, vùng xa, ngăn chặn tình trạng “ Chảy máu chất xám”. Nếu làm được như vậy, chính các nhà khoa học mới có tinh thần thoải mái, yên tâm cống hiến hết mình phục vụ tài lực cho sự nghiệp phát triển thị trường khoa học- công nghệ trong nước.

Có thể nói, bước vào kỷ nguyên của tri thức và công nghệ, thì công tác giáo dục và đào tạo là vấn đề đặt lên hàng đầu trong mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Không có những con người nhạy bén, thông minh và sáng tạo, Việt Nam sẽ không thể thành công trong sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, và càng khó thực hiện mục tiêu rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ tư, một mô hình đào tạo khoa học đã được đưa ra: “ Học phải đi đôi với hành, lý thuyết phải gắn liền với thực tiễn”. Do đó, phải kết hợp học tập, giảng dạy với nghiên cứu khoa học, lao động và sản xuất phải phục vụ đời sống xã hội. Mô hình đó càng được khẳng định trong điều kiện kinh tế thị trường gắn với hội nhập toàn cầu. Chính Nghị quyết Trung ương II cũng chỉ rõ: “ Lấy phát triển giáo dục, đào tạo là yếu tố cơ bản, coi đó là khâu đột phá” cho sự phát triển nền khoa học nói riêng và cho sự phát triển kinh tế toàn diện của đất nước nói chung. Đây là một quan điểm, đường lối hoàn toàn đúng đắn. Song, để điều này trở thành thực tiễn cuộc sống, mỗi cá nhân, mỗi ngành phải có những nỗ lực hết mình. Quan trọng nhất là cần có sự

phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý của các ngành có liên quan bằng những chính sách cụ thể và khả thi.

Đối mặt với sự phát triển nhanh như vũ bão của các làn sóng công nghệ mới trên thế giới hiện nay: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô và công nghệ vật liệu mới, chúng ta cần nắm bắt thời cơ và có hướng đi thích hợp. Là một nước nghèo, việc đầu tư đòi hỏi phải đúng hướng và hiệu quả. Vì vậy, dựa trên những kinh nghiệm và kết hợp với thực tế đất nước, Việt Nam cần có chương trình quốc gia cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ mới này, nhằm vừa ứng dụng hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ, vừa nắm bắt kịp thời cơ của các công nghệ mới này. Có như vậy, Việt Nam không những đạt được tiến bộ trong khoa học- công nghệ, mà còn không bị lạc hậu quá xa về công nghệ so với khu vực và thế giới.

Do đó, trong giai đoạn tới, chúng ta phải định ra phương hướng cụ thể để ứng dụng và phát triển các thành tựu của cuộc cách mạng Khoa học & công nghệ mới hiện nay, đó là:

1. Phù hợp với đặc điểm của khoa học và công nghệ Việt Nam.2. Phát triển bền vững và “thân thiện” với môi trường sinh thái. 2. Phát triển bền vững và “thân thiện” với môi trường sinh thái.

3. Xây dựng chính sách công nghệ đa dạng, kết hợp công nghệ cao với công nghệ truyền thống.4. Xây dựng và phát triển khu công nghệ cao. 4. Xây dựng và phát triển khu công nghệ cao.

5. Tạo lập thị trường công nghệ với các chính sách công nghệ phù hợp của Nhà nước.6. Cải tổ hệ thống giáo dục- đào tạo. 6. Cải tổ hệ thống giáo dục- đào tạo.

Từ đó, chúng ta cần có biện pháp cụ thể:

Một phần của tài liệu Vai trò của khoa học công nghệ trong tiến trình CNH-HĐH ở việt nam (Trang 28 - 29)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(37 trang)
w