Đường thị trường chứng khoán (SML)

Một phần của tài liệu Áp dụng các công cụ toán tài chính vào việc quản lý danh mục đầu tư và ứng dụng trong thị trường chứng khoán Việt Nam.DOC (Trang 31 - 36)

CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN

II. XÂY DỰNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ

2. Các mô hình quản lý danh mục đầu tư

2.2. Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)

2.2.3. Đường thị trường chứng khoán (SML)

Trong mô hình CAPM, độ rủi ro của mỗi chứng khoán không được đo bằng độ lệch chuẩn đã bị triệt tiêu do đa dạng hoá danh mục đầu tư. Khi các chứng khoán tham gia vào danh mục đầu tư thì triệt tiêu bớt phần rủi ro phi hệ thống, danh mục thị trường được coi là đa dạng hoá hoàn hảo. Vì vậy rủi ro phi hệ thống của từng chứng khoán được triệt tiêu hết, chỉ còn lại phần rủi ro hệ thống được đo bằng tích sai của chứng khoán đó với danh mục M.

Đồ thị thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất đối với mỗi chứng khoán riêng lẻ như trên được gọi là đường thị trường chứng khoán (Security Market Line- SML) được thể hiện dưới đây.

31

Bảng 4. Đồ thị biểu diễn đường SML

0

Mô hình giá tài sản vốn (CAPM) như sau:

E(Ri) = Rf + βi[(E ( RM) - Rf] Rf : lợi suất của tài sản phi rủi ro.

RM : lợi suất của danh mục thị trường.

Đây chính là mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất ước tính của từng chứng khoán riêng lẻ được thể hiện dưới dạng phương trình.

Phương trình này cho thấy: với những giả thiết về thị trường vốn nêu trên, lợi suất kỳ vọng của mỗi chứng khoán có quan hệ tỷ lệ thuận với hệ số rủi ro hệ thống (β). Chứng khoán có hệ số beta càng cao thì yêu cầu lợi suất phải càng cao.

Trong phương trình trên, βi[(E ( RM) - Rf] chính là phần bù rủi ro (risk premium).

Từ điều kiện cân bằng thị trường, nếu một danh mục P là danh mục khả thi thì danh mục đó phải được định giá sao cho P phải nằm trên đường CML.

Tuy nhiên trong thực tế, nếu có danh mục Q, tài sản i nào đó phi hiệu quả, có giá trên thị trường. Trường hợp này giá danh mục Q và tài sản i được xác định:

32

βM = 1.0 βi β

E (ri)E (rM)

M

i

S E ML

(r)

Rf

βi =1,2

( ) ( M f )

M M Q f

Q r r r r

r

r − = cov , . − σ2

Đây chính là chênh lệch lợi suất so với lợi suất phi rủi ro của danh mục Q bất kỳ.

2.2.4. Ý nghĩa của CAPM

- SML được coi là một tiêu chí chuẩn mực để đánh giá một phương án đầu tư. Với việc chấp nhận một độ rủi ro nhất định đối với một phương án đầu tư (được đo bằng hệ số beta), SML cho chúng ta biết lợi nhuận thu được của phương án đầu tư đó phải là bao nhiêu mới có thể bù đắp được rủi ro mà các nhà đầu tư phải gánh chịu.

- Xuất phát từ ý nghĩa của đường SML, tất cả các chứng khoán nếu được định giá chính xác nhất thiết phải nằm trên đường SML. Với những điểm nằm phía trên hoặc dưới đường SML đều biểu hiện tình trạng giá không phản ánh đúng với giá trị cân bằng trên thị trường. Nếu là điểm nằm phía trên đường SML, chứng khoán đó được định giá thấp hơn giá trị thực sự của chúng. Trong trường hợp này, các nhà đầu tư nên mua loại chứng khoán đó. Ngược lại, nếu điểm đó nằm dưới đường SML, không nên mua loại chứng khoán này vì giá của chúng cao hơn giá trị thực sự của chúng.

33

βi =1,2

Bảng 5.

Hệ số α của tài sản hay của danh mục biểu thị sự chênh lệch giữa lợi suất thực hiện và lợi suất kỳ vọng (lợi suất mong đợi) của tài sản hay của danh mục.

Raci : lợi suất thực hiện của tài sản i (actual return) RacP : lợi suất thực hiện của danh mục P.

Định nghĩa:

P acP P

i aci i

R R

R R

=

= α α

Từ mô hình CAPM suy ra:

( M f )

i f aci

i =Rr −β rr

α

trong đó: Raci – rf : chênh lệch lợi suất thực hiện

f

M r

r − : chênh lệch lợi suất thị trường

( M f)

i.rr

β : phần bù rủi ro.

( M f )

P f acP

P =Rr −β rr

α

Dễ dàng chứng minh được: ∑

=

= N

i i i

P w

1

α α

Các nhà quản lý danh mục có thể sử dụng hệ số α của danh mục hoặc tài sản để đánh giá việc thực hiện (hay thực thi) danh mục.

Nếu tài sản i định giá đúng thì: α i=0 34 M

SML E (r)

Rf 15 14

0 β

M = 1,0 βi =1,2 β

1 2

16 3 Định giá thÊp

§Þnh gi¸

cao

Định giá thấp

Định giá cao

Nếu: α i >0 : tài sản i đang được định giá thấp (“under priced”) α i <0 : tài sản i đang được định giá cao (“over priced”).

Nếu hệ số αP càng lớn thì việc thực thi danh mục càng có hiệu quả.

- Một ý nghĩa khác của CAPM là vai trò của nó trong việc ra quyết định đầu tư vốn. Đối với các công ty đang chuẩn bị cho một dự án đầu tư mới, CAPM đưa ra một mức lợi suất yêu cầu phải đạt được cho dự án đầu tư trên cơ sở những thông số của hệ số beta được các nhà đầu tư chấp thuận.

Như vậy, đối với các phương án đầu tư khác nhau, CAPM sẽ quyết định phương án nào tối ưu nhất để lựa chọn.

** So sánh giữa SML và CML:

CML thể hiện mối tương quan giữa lợi suất với rủi ro của những danh mục tổng thể hiệu quả (danh mục biết kết hợp đầu tư chứng khoán phi rủi ro với danh mục đầu tư thị trường). SML thể hiện mối quan hệ hàm bậc nhất giữa lợi suất và rủi ro của từng chứng khoán riêng lẻ.

Cần nhắc lại rằng để đo độ rủi ro của từng chứng khoán riêng lẻ trong danh mục đầu tư đã được đa dạng hoá toàn diện thì không dùng độ lệch chuẩn (rủi ro tổng thể) của chứng khoán đó mà dùng mức độ đóng góp của chứng khoán đó vào rủi ro chung của danh mục đầu tư. Phần đóng góp này là hệ số beta (β).

Rõ ràng CML chỉ áp dụng đối với các danh mục tổng thể, còn SML được áp dụng cho cả danh mục và cho từng chứng khoán riêng biệt.

** Kết luận:

35

Một phần của tài liệu Áp dụng các công cụ toán tài chính vào việc quản lý danh mục đầu tư và ứng dụng trong thị trường chứng khoán Việt Nam.DOC (Trang 31 - 36)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(99 trang)
w