Pháp luật nước Cộng hòa liên bang Đức

Một phần của tài liệu Án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương (Trang 32 - 38)

6. Kết cấu của luận văn

1.3.4. Pháp luật nước Cộng hòa liên bang Đức

Theo quy định của luật hình sự của Cộng hòa liên bang Đức thì quy định rất rõ về căn cứ, điều kiện cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách…

Điều 56 Bộ luật hình sự Đức quy định nhiều căn cứ: Hình phạt tù không quá một năm; nếu thấy người bị kết án đã bị cảnh cáo và tương lai không phạm tội mới dù không bị tù; khi áp dụng án treo cần chú ý nhân thân người phạm tội, cuộc sống trước đây của họ, hoàn cảnh phạm tội, thái độ sau khi phạm tội, quan hệ xã hội và tác dụng chờ đợi ở người được hưởng án treo.

Quy định này là chặt chẽ, khắt khe, đã thu hẹp đối tượng được hưởng án treo hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam.

Về căn cứ nếu thấy người bị kết án đã bị cảnh cáo và (cơ sở để tin) tương lai không phạm tội mới dù không bị tù. Đây là căn cứ không được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Có thể nói, đây là quy định rất chặt chẽ, hạn chế Thẩm phán tùy nghi áp dụng án treo mặc dù có đã có đủ điều kiện để bị cáo được hưởng án treo. Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật hình sự Đức thì Thẩm phán phải cân nhắc rất nhiều tình tiết để cho bị cáo được hưởng án treo như: Cuộc sống trước đây của họ, hoàn cảnh phạm tội, thái độ sau khi phạm tội, quan hệ xã hội và tác dụng chờ đợi ở người được hưởng án treo.

Toàn bộ những căn cứ trên giúp cho Hội đồng xét xử ban hành quyết định áp dụng hay không áp dụng án treo một cách chính xác.

Thời gian thử thách của án treo: Điều 56a Bộ luật hình sự Đức quy định "Tòa án quyết định thời gian thử thách của án treo là không quá năm năm và không dưới hai năm" [41]. Như vậy, thời gian thử thách của án treo trong Bộ luật hình sự Đức quy định chặt chẽ hơn trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Thể hiện ở mức tối thiểu của thời gian thử thách là hai năm so với một năm của Việt Nam. Điểm tiến bộ của Bộ luật hình sự Đức trong quy định thời gian thử thách của án treo là thời gian bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo được quy định ngay trong Bộ luật hình sự "Thời gian thử thách bắt đầu từ khi bản án cho hưởng án treo có hiệu lực".

Về nghĩa vụ mà người được hưởng án treo phải thực hiện. Theo quy định của Bộ luật hình sự Đức, việc giao nghĩa vụ cho người được hưởng án treo là rất cần thiết để quản lý, thấy được sự tiến bộ của người được hưởng án treo. Là nghĩa vụ bằng khả năng của mình khắc phục hậu quả đã gây ra; nộp tiền vào công quỹ hoặc cho cơ sở phục vụ hoạt động công cộng; các đóng góp công ích khác...

Các quyết định áp đặt cho người được hưởng án treo: Bộ luật hình sự Việt Nam không quy định các quyết định áp đặt cho người được hưởng án

treo. Trong khi đó, Điều 56c Bộ luật hình sự Đức quy định rất nhiều quyết định để Thẩm phán có thể lựa chọn áp dụng áp đặt cho người được hưởng án treo. Mục đích của quy định này là nhằm làm cho người được hưởng án treo thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ trong thời gian được hưởng án treo. Đó là, Tòa án có thể chỉ thị: Về chỗ ở, học tập, việc làm nghỉ ngơi hoặc kinh doanh; trình diện tại Tòa án hoặc nơi khác; không giao thiệp với một số người hoặc một nhóm người nhất định có thể dẫn dắt vào việc phạm tội; không sở hữu, tàng trữ công cụ phương tiện nhất định có thể gây án; thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Chỉ thị sau khi có sự đồng ý của người bị kết án là: Chữa bệnh bắt buộc hoặc vào một cơ sở giáo dục; vào sống trong một ký túc xá.

Vấn đề giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian thử thách: Điều 56d Bộ luật hình sự Đức quy định rất rõ ràng: Nếu người được hưởng án treo chưa đủ 27 tuổi và hình phạt tự do của họ là trên 9 tháng thì Tòa án có thể cử người trợ giúp trong thời gian thử thách.

Hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo: Điều 56b Bộ luật hình sự Đức cho phép Thẩm phán có nhiều lựa chọn khi áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo gồm:

1- Bồi thường thiệt hại;

2- Trả một khoản tiền cho cơ sở dịch vụ công;

3- Lao động công ích;

4- Nộp một khoản tiền cho Nhà nước.

Điều kiện thử thách và hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách của án treo: Tại khoản 5 Điều 60 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định trường hợp bị tước án treo chỉ có một căn cứ duy nhất là phạm tội mới trong thời gian thử thách. Nhưng Điều 56f Bộ luật hình sự Đức quy định rất rộng các căn cứ khi vi phạm nghĩa vụ thực hiện trong thời gian được hưởng án treo sẽ bị tước bỏ án treo là:

1- Trong thời gian thử thách phạm tội mới;

2- Không nghe lời người giúp đỡ, không tuân thủ các chỉ thị và có nguy cơ phạm tội mới;

3- Không thanh toán các khoản phạt.

Bộ luật Hình sự Đức không quy định tổng hợp hình phạt đối với bị án được hưởng án treo lại phạm tội mới trong thời gian thử thách còn Bộ luật hình sự Việt Nam lại quy định vấn đề này.

Bộ luật hình sự Đức quy định về hủy bỏ hình phạt tại Điều 56g. Theo đó, khi hết thời gian thử thách mà Tòa án không phải ra quyết định hủy bỏ án treo thì Tòa án ban hành quyết định hủy hình phạt tù đã tuyên. Bộ luật hình sự Việt Nam không quy định vấn đề này.

Xét giảm thời gian thử thách: Bộ luật hình sự Đức không quy định xét giảm thời gian thử thách đối với án treo, trong khi đó Bộ luật hình sự Việt Nam quy định xét giảm thời gian thử thách đối với án treo tại khoản 4 Điều 60. Khi người bị kết án đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách, có nhiều tiến bộ thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục làm đề nghị để Tòa án ban hành quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

Bộ luật hình sự Đức còn quy định án treo cho trường hợp đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân tại Điều 57, 57a. Đây là quy định rất khác so với Bộ luật hình sự Việt Nam. Tại Điều 57 Bộ luật hình sự Đức quy định: Tòa án cho người đang chấp hành án tù hưởng án treo khi: Bị án đã chấp hành được 2/3 án tù (ít nhất là 2 tháng); bị án sẽ không phạm tội mới dù được tự do thì Tòa án có thể cho hưởng án treo phần hình phạt còn lại khi bị án chấp nhận việc thay thế này. Khi quyết định cho hưởng án treo, Tòa án phải xem xét nhân thân người phạm tội, quá khứ của họ, các tình tiết của tội phạm, thái độ người phạm tội trong trại giam, hoàn cảnh sống cũng như tác động đến tương lai của họ nếu áp dụng án treo.

Tại Điều 57a Bộ luật hình sự Đức thì điều kiện để bị án chịu hình phạt tù chung thân được chuyển đổi sang án treo là: Đã chấp hành hình phạt tù được 15 năm; đã có kết quả cải tạo tốt; thỏa mãn điều kiện của khoản 1, khoản 5 của Điều 57 (điều kiện cho hưởng án treo). Thời gian thử thách của trường hợp này là 5 năm. Đây là quy định thể hiện tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc.

Thông qua việc nghiên cứu về án treo của một số nước trên thế giới thấy rằng ở mỗi nước tùy thuộc vào hoàn cảnh địa lý, sự phát triển về kinh tế xã hội, ý thức chấp hành pháp luật của người dân trong việc thực thi pháp luật mà mỗi quốc gia lựa chọn cho mình một giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, luật hình sự hầu hết các quốc gia quy định về án treo có một điểm chung, giống nhau đó là thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự về vấn đề cưỡng chế của nhà nước với sự tham gia của xã hội trong quá trình giáo dục cải tạo người phạm tội mà không bắt họ cách ly khỏi cộng đồng, tạo điều kiện cho họ có một môi trường cải tạo tốt hơn. Mặt khác các bị án đều phải chịu bởi hậu quả pháp lý xấu nếu điều kiện thử thách cụ thể của án treo bị vi phạm.

Điều này đảm bảo sự tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh những điều kiện thử thách của án treo từ phía người phạm tội.

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO TẠI ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG

2.1. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ ÁN TREO

Tại Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:

1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.

2. Trong thời gian thử thách Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục người đó.

3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.

4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan tổ chức có trách nhiệm giám sát giáo dục, Tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách.

5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 Bộ luật này [21, tr. 72].

Hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06.11.2013 đã đưa ra khái niệm về án treo:

"Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù" [37].

Một phần của tài liệu Án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương (Trang 32 - 38)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(100 trang)