Trong những năm qua, không chỉ các hộ gia đình ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nói riêng gặp nhiều khó khăn về khả năng trả nợ vay do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khi đó ảnh hưởng đến uy tín của bản thân đối với TCTD, gây nên tình trạng nợ xấuvà chính bản thân các TCTD cũng rất chọn lựa đối tượng khách hàng này. Ở các nước khác trên thế giới cũng gặp khó khăn tương tự. Do vậy, gây ra nhiều khó khănđối với hoạt động sản xuất của đối tượng này. Trên thế giới đã có nhiều chương trình hỗ trợ, nhằm giúp cho hộ gia đình nghèo có điều kiện nâng cao khả năng trả nợ vaymột cách tốt nhất. Sau đây là những tổng hợp về kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc nâng cao khả năng trả nợ vaycủa hộ gia đình:
1.3.1.1. Kinh nghiệm từ Ngân hàng Grameen (GB) – Bangladesh
Ngân hàng GB do Giáo sư Muhammad Yunus khởi xướng vào năm 1974 như một dự án cung cấpdịch vụ ngân hàng cho những hộ gia đình, giúp họ tự tạo việc làm, nâng cao thu nhập, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp ở nông thôn Bangladesh. Mục tiêu của dự án là hỗ trợ vốn để người nghèo đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thu nhập (GB, 2010).
Ðiểm nhấn sáng tạo của dự án này là mô hình “nhóm tự quản” kết nối những người vay có hoàn cảnh tương tự để họ cùng chia sẻ trách nhiệm, sàng lọc, giám sát và quản lý lẫn nhau, giảm sự bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng. Mỗi nhóm vay gồm 5 người, khoản vay đầu tiên dành cho 2 người, rồi tiếp đến người thứ 3, thứ 4 và người cuối cùng. Hàng tuần nhân viên sẽ gặp khoảng 40 người (khoảng 7 - 8 nhóm), ở đây nhân viên tín dụng là cầu nối giữa
27
các nhóm và thành viên, và chia sẻ những kinh nghiệm làm ăn, và/hoặc quản lý chi tiêu. Ðặc biệt, khi 1 thành viên trong nhóm không có khả năng trả nợ thì GB sẽ từ chối tất cả các khoản vay của các thành viên còn lại trong nhóm. Do vậy, người vay bị hối thúc buộc phải làm ăn để trả nợvà nhiều người có thể cảm thấy ngại ngùng nếu không trả được nợ góp phần gia tăng khả năng trả nợ (vì vậy, tỷ lệ trả nợ tại tổ chức tài chính vi mô này thường rất cao).
Dự án đã chứng tỏ sự hiệu quả và được nhân rộng dần ra nhiều khu vực ở Bangladesh. Năm 1983, Chính phủ Bangladesh quyết định chuyển đổi dự án này thành một ngân hàng độc lập.
1.3.1.2. Kinh nghiệm từ Ngân hàng CARD - Philippines
Ngân hàng CARD ra đời năm 1989, vận dụng mô hình GB vào Philippines, đưa các dịch vụ tài chính cho hộ gia đình ở nông thôn, giúp họ mở rộng các hoạt động sản xuất nông nghiệp hiện có để tạo thu nhập, nâng cao đời sốngvà nâng cao khả năng trả nợ vay thông qua mô hình tổ, nhómvay vốn. Hoạt động Ngân hàng CARD chủ yếu tại thành phố San Pablo. Hoạt động của Ngân hàng giống với GB ở Bangladesh. Do vậy, các dịch vụ ngân hàng được thiết kế phục vụ phù hợp, đưa các dịch vụ tới tận cộng đồng theo hình thức “tín dụng tận ngõ” và phục vụ các giao dịch tài chính có thể rất nhỏ trong khả năng của hộ gia đình như cho vay theo tổ, nhóm với hình thức trả góp lãi suất ưu đãi, điều này phù hợp với khả năng trả nợ của hộ gia đình.
1.3.1.3. Kinh nghiệm từ Gapi và Clusa – Mozambique
GAPI cung cấp đầu tư và cho vay vốn lưu động đến các diễn đàn (Liên đoàn các hiệp hội) của các hộ nông dân nhỏ và các doanh nghiệp vi mô, nhỏ.
Gapi hợp tác với Clusa để cài đặt và đăng ký các diễn đàn. Các khoản cho vay được đảm bảo thông qua một bảo đảm đoàn kết nhóm giữa các diễn đàn tham gia. Mỗi diễn đàn về cho vay các hiệp hội thành viên, người thu thập các sản phẩm từ các thành viên cá nhân và nông dân khu vực khác và cung cấp các diễn đàn lại cho khoản vay. Khoảng 80% của lợi nhuận từ bán các sản phẩm được giao lại cho các hiệp hội. Nguồn còn lại 20% lợi nhuận được giữ bởi các diễn đàn như các khoản thanh toán lãi.
1.3.1.4. Kinh nghiệm từ Swayam Krishi Sangam (SKS) - Ấn Độ
28
Học tập phương pháp cho vay của Ngân hàng Grameen ra đời vào năm 1998. SKS cung cấp các sản phẩm tài chính thông qua một mô hình cho vay đối với nhóm hộ gia đình ở nông thônvì mục đích lợi nhuận.
Nhiệm vụ của SKS: “Để trao quyền kinh doanh cho những hộ gia đình ở nông thôn nhóm cung cấp các dịch vụ tài chính ở cấp độ làng xã một cách đầy đủ nhất”.
Sản phẩm tài chính vi mô của SKS: SKS vận hành theo mô hình Tập đoàn trách nhiệm hữu phần (Joint Liability Group- JLG). Hình thức tín dụng thực hiện theo nhóm năm thành viên phương pháp cho vay của Ngân hàng Grameen. SKS cung cấp 8 sản phẩm và dịch vụ tài chính cho các khách hàng: vay tạo thu nhập, các khoản cho vay trung hạn, hỗ trợ tang, khoản vay vàng, vay nhà ở, bảo hiểm nhân thọ,…
1.3.2. Bài học kinh nghiệmcủa Việt Nam
Thông qua một số bài học kinh nghiệm trên thế giới trong hỗ trợ cho các hộ gia đình để có thể gia tăng thu nhập, nâng cao khả năng trả nợ vay tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh cải thiện thu nhập. Chúng ta có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm nhằm giúp các hộ nuôi trồng thủy sản có thể nâng cao khả năng trả nợ vay một cách tốt hơn.
Thứ nhất, các ngân hàng thương mại - đặc biệt ngân hàng nhỏ, năng lực tài chính và quản trị chưa mạnh, có thể hướng tới hoạt động giống ngân hàng vi mô như ngân hàng Grameen tại Bangladesh, hoặc ngân hàng Rakyat Indonesia…. Ðây là hoạt động cho vay khoản vay nhỏ đối với hộ, giúp phân tán được rủi ro qua nhiều khách hàng và kinh nghiệm quốc tế thấy được, tỷ lệ hoàn trả nợ vay cao, tới trên 90% (thậm chí lên tới 99%).
Thứ hai, Nhà nước có thể hỗ trợ các ngân hàng có một mức lãi suất cho vay ưu đãi đối với các hộ nuôi trồng thủy sản đang gặp khó khăn hay các hộ nuôi trồng thủy sản mới hoạt động, giúp hộ này giảm gánh nặng về tài chính. Nhằm giúp các hộ nuôi trồng thủy sản có thể vượt qua khó khăn. Bên cạnh đó, cũng phải đảm bảo các NHTM không bị thiệt hại khi thực hiện chủ trương này.
Thứ ba, việc thành lập các tổ chức hỗ trợ cho các hộ nuôi trồng thủy sản để họ được áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Điều này giúp các hộ nuôi trồng thủy sản có thể ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhăm
29
hạn chế rủi romột mức thấp nhất. Giúp họ cải thiện được thu nhập cũng như giúp cho tình hình kinh tế của tỉnh được nâng lên.
Thứ tư, thành lập các hội phù hợp với tình hình phát triển của địa phương, để họ có thể nắm bắt được những khó khăn về kinh tế mà các hộ nuôi trồng thủy sản trong vùng đang gặp phải. Nhằm có biện pháp giúp đỡ hộ nuôi trồng thủy sản giải quyết các khó khăn một cách nhanh chóng. Đồng thời việc liên kết giữa những hội đơn lẻ với nhau có thể giúp cho hộ nuôi trồng thủy sản có điều kiện trả nợ tốt hơn. Ví dụ như các hộ nuôi trồng thủy sản có thể thành lập nên những thương hội có quy mô rộng hơn là địa bàn, để tăng mức tín nhiệm với ngân hàng.
Thứ năm, việc liên kết giữa chính quyền trung ương và địa phương rất quan trọng, nhằm có thể giám sát được tình hình phát triển của các hộ nuôi trồng thủy sản và để đề ra các chính sách hợp lý thuận lợi trong quá trình xem xét và đưa ra các quyết định quan trọng trong việc cấp tín dụng cho hộ nuôi trồng thủy sản.
Cuối cùng là việc liên kết giữa các tổ chức tín dụng và cơ quan địa phương nhằm để có thể nằm bắt được tình hình phát triển của hộ nuôi trồng thủy sản một cách tốt nhất. Tạo điều kiện thuận lợi để ngân hàng có cơ sở để tiến hành cho hộ nuôi trồng thủy sản vay vốn.
30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Việc đánh giá khả năng trả nợ vay của hộ nuôi trồng thủy sảnđóng vai trò rấtquan trọng trong việc cho vay của ngân hàng. Góp phần hạn chế tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu hiện nay của các ngân hàng, do đó hầu hết các ngân hàng đều quan tâm và không ngừng nâng cao khả năng trả nợ vay của hộ nuôi trồng thủy sản.
Từ việc tìm hiểu, tổng hợp các tài liệu đã học, một số vấn đề đã được giải quyết đó là: tổng hợp những kiến thức, lý thuyết cơ bản về hoạt động nuôi trồng thủy sản và hoạt động cho vay hộ nuôi trồng thủy sản. Các bài học thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam nhằm rút ra những kinh nghiệm để ứng dụng vào luận văn.
31