c. Ảnh hưởng đến môi trường không khí
2.4.2 Một số mô hình xử lý chất thải nguyhại hiện nay ở Việt Nam
Tính đến tháng 6 năm 2011, Bộ TN&MT đã cấp 80 Giấy phép hành nghề vận chuyển CTNH và 43 Giấy phép hành nghề xử lý CTNH cho các cá nhân, tổ chức đăng ký. Các công nghệ điểu hình và phổ biến hiện nay được tóm tắt trong bảng [10]:
Bảng 2.4: Các công nghệ xử lý CTNH điển hình và phổ biến hiện nay tại Việt Nam
STT Tên công nghệ Số cơ sở áp dụng Số mô đun hệ thống Công suất 1 Lò đốt tĩnh hai cấp 23 28 50 – 1000kg/h 2 Đồng xử lý trong lò nung xi măng 2 2 30tấn/h 3 Chôn lấp 2 3 15.000m3 4 Hóa rắn (bê tong hóa) 19 19 1 -5m3/h 5 Xử lý, tái chế dầu thải 20 20 3 – 20 tấn/ngày 6 Xử lý bóng đèn thải 10 10 0,2 tấn/ngày 7 Xử lý chất thải điện tử 6 6 0,3 – 5 tấn/ngày 8 Phá dỡ, tái chế ắc quy chì thải 9 9 0,5 – 200 tấn/ngày 9 Tái chế dung môi 13 13 0,25 – 1,2 m3/h 10 Xúc rửa thùng phi 15 15 60 – 1000 phuy/ngày
11 Xử lý nước thải 20 23 6 – 25 m3/ngày 12 Tận thu kim
loại (xử lý xỉ kẽm, tận thu muối kim
loại)
4 10 0,1 – 1 tấn/h
(Nguồn: TCMT, 2011)
Lò đốt tĩnh hai cấp
Đây là loại công nghệ phổ biến được sử dụng nhiều ở Việt Nam với tổng số 24 lò đốt, chiếm 21/36 số cơ sở xử lý CTNH do Tổng cục Môi trường cấp phép. Công suất của các lò đốt dao động từ 50-1000 kg/h, giá thành từ vài trăm triệu đến khoảng chục tỷ đồng tuỳ theo công suất và cấu trúc công nghệ.
Ưu điểm của công nghệ lò đốt tĩnh hai cấp là công nghệ đơn giản, sẵn có (nhập khẩu hoặc chế tạo trong nước), chi phí đầu tư hợp lý, dễ vận hành phù hợp điều kiện Việt Nam. Lò đốt cũng là công nghệ chủ lực trong các cơ sở xử lý CTNH do có dải CTNH xử lý rộng (bao gồm cả chất thải y tế). Kể cả các lò đốt nhập từ nước ngoài về cũng phải cải tiến để đáp ứng việc đốt đa dạng CTNH do các lò nước ngoài thường được thiết kế để chuyên đốt một số loại CTNH nhất định [7].
Đồng xử lý trong lò nung xi măng
Công nghệ này mới được sử dụng bởi hai cơ sở sản xuất xi măng tại Kiên Giang và Hải Dương. Do đặc thù của công nghệ sản xuất xi măng lò quay, có thể sử dụng CTNH làm nguyên liệu, nhiên liệu bổ sung cho quá trình sản xuất xi măng, chất thải được tiêu huỷ đồng thời trong lò nung xi măng ở nhiệt độ cao (trên 130000C). Lò nung clinke có hình trụ quay quanh trục để đảo trộn các vật liệu khi nung. Do quá trình nung xi măng thường phát sinh nhiều khí độc và bụi nên các nhà máy sản xuất xi măng thường đầu tư hệ thống xử lý
khí thải hiện đại. Hệ thống xử lý khí thải nhà máy xi măng bao gồm các công đoạn như: lọc bụi thô bằng xyclon, sau đó lọc bụi tinh bằng tĩnh điện hoặc túi vải, sau đó sử dụng phương pháp hấp thụ các khí độc bằng dung dịch kiềm dưới dạng phun sương.
Đồng xử lý CTNH trong lò nung xi măng có nhiều ưu điểm lớn như môi trường hoạt động ở nhiệt độ cao nên hiệu suất tiêu huỷ cao, xử lý được nhiều loại CTNH với khối lượng lớn, kể cả các chất thải có chứa halogen. Đặc biệt là hiệu quả kinh tế rất lớn do tiết kiệm nguyên, nhiên liệu vì các loại CTNH dễ cháy góp phần cung cấp nhiệt lượng và một số loại CTNH có thành phần phù hợp với nguyên liệu sản xuất xi măng. Bên cạnh đó, đồng xử lý tận dụng hệ thống sản xuất xi măng sẵn có nên tiết kiệm được chi phí đầu tư về cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, đồng xử lý CTNH trong lò nung xi măng đòi hỏi công nghệ sản xuất xi măng hiện đại là lò quay khô, có tiền nung, cần nghiên cứu kỹ quá trình nạp chất thải vào lò để không ảnh hưởng đến quá trình sản xuất xi măng cũng như đảm bảo hiệu quả xử lý CTNH [7].
Chôn lấp CTNH
Kinh nghiệm từ các nước trên thế giới:
Bãi Chôn Lấp New River ở Bang Florida - Mỹ. Bãi chôn lấp New River nằm ở đường quốc lộ 121 cách 35 dặm về phía Bắc của Gainesville. Công suất của bãi là 500-525 (tấn/ngày), bắt đầu hoạt động vào năm 1998 [1].
Bãi Chôn Lấp North Wake County. Đây là BCL ở Anh, rác thải ở đây được chôn theo từng ngày vào từng đơn nguyên có kích thước là 15,25 m x 15,25 m x 4,26 m. Công suất của bãi là 2500 (tấn/ngày). Hệ số nén ép là 1500 (lb/yd3) hay 887 (kg/m3). Tại đây có đầy đủ hệ thống thu gom nước rỉ rác và khí BCL [1].
BCL High Acres & Trung Tâm Tái Sinh Tái Chế ở New York - Mỹ. BCL High Acres này nằm ở Macedon, Wayne County, New York, Mỹ có 2 BCL nhỏ và một khu vực làm compost. Một BCL đã đóng bãi, BCL còn lại được
mở rộng vào tháng 9/2003, có công suất 3.500 tấn/ngày và thời gian hoạt động là 10 năm. Khu vực chế biến compost (sử dụng nguyên liệu chủ yếu là rác vườn) và tái chế gỗ: có công suất là 15.600 tấn/năm [1].
Đối với Việt Nam, Công nghệ này hiện nay mới áp dụng ở Hà Nội và Bình Dương với dung tích của mỗi hầm chôn lấp từ 10.000 – 15.000 m3. Bãi chôn lấp CTNH, hay thực chất là các hầm chôn lấp, được thiết kế theo quy định tại Tiêu chuẩn xây dựng TCXDVN 320:2004 về Bãi chôn lấp chất thải nguy hại – Tiêu chuẩn thiết kế. Việc vận hành bãi chôn lấp CTNH thực hiện trên cơ sở Hướng dẫn kỹ thuật chôn lấp chất thải nguy hại ban hành kèm theo Quyết định số 60/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 07 tháng 8 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
Ưu điểm của các hầm chôn lấp CTNH có khả năng cô lập các CTNH chưa có khả năng xử lý bằng công nghệ khác, công suất lớn và giá thành xử lý khá rẻ so với nhiều phương pháp tiêu huỷ khác như đốt. Hơn nữa, CTNH tương lai có thể đào lên để xử lý nếu có công nghệ phù hợp. Các hầm chôn lấp đều có mái che kín trong quá trình vận hành nên biện pháp này có tính chất là đóng kén hơn là chôn lấp, không có khả năng phát sinh nước rò rỉ nhưng vẫn có hệ thống thu gom nước rò rỉ. Tuy nhiên phương pháp này khá tốn diện tích. CTNH không được xử lý triệt để, mối nguy cơ rò rỉ vẫn còn nên cần giám sát lâu dài sau khi đóng hầm [7].
Hóa rắn (bê tông hóa)
Công nghệ này được sử dụng rất phổ biến, có mặt tại 17/36 cơ sở hành nghề xử lý CTNH do Tổng cục Môi trường cấp phép với công suất trung bình từ 1 – 5 m3/h. Đặc điểm của công nghệ là sử dụng CTNH kết hợp với xi măng, cát, sỏi, nước để đóng rắn các CTNH trơ, vô cơ như tro xỉ, tránh phát tán các thành phần nguy hại ra môi trường. Hiện nay đang phổ biến hai công nghệ là hoá rắn có nén ép cưỡng bức (sử dụng máy ép thuỷ lực để ép chặt cốt liệu bê tông như sản xuất gạch block) và hoá rắn thông thường (đổ bê tông tự
nhiên). Cấu tạo của hệ thống hoá rắn thường rất đơn giản, gồm có máy trộn bê tông và máy ép khuôn hoặc các khuôn đúc.
Công nghệ hóa rắn có ưu điểm là thiết bị, công nghệ đơn giản, sẵn có (có thể tự lắp đặt, chế tạo), dễ vận hành, có hiệu quả kinh tế vì có thể tận dụng sản xuất vật liệu xây dựng (gạch block, tấm đan…). Tuy nhiên công nghệ hóa rắn chỉ xử lý an toàn đối với CTNH trơ, có thành phần vô cơ [7].
Tái chế dầu thải
Hiện tại, có 13/36 các cơ sở hành nghề xử lý do Tổng cục môi trường cấp phép đầu tư công nghệ tái chế dầu và một số cơ sở đang làm thủ tục cấp phép, chủ yếu rơi vào các loại như sau: chưng cất cracking dầu (chưng phân đoạn hay còn gọi chưng nhiều bậc và chưng đơn giản hay chưng một bậc); phân ly dầu nước bằng phương pháp cơ học (ly tâm) và bằng nhiệt.
Trong thực tế, phần lớn các cơ sở sử dụng công nghệ chưng đơn giản để thu hồi các cấu tử dầu (nguyên lý là sử dụng nhiệt để làm bay hơi và cắt mạch, sau đó ngưng tụ để thu hồi các cấu tử dầu, cặn rắn được tách ra và lấy ra ở đáy nồi chưng). Hiện nay có một số cơ sở đang đầu tư công nghệ chưng phân đoạn (chưng nhiều bậc) để tái chế dầu, đây là công nghệ hiện đại sử dụng để sản xuất các sản phẩm xăng dầu từ dầu thải. Về cơ bản chưng nhiều bậc giống với chưng đơn giản, khác ở chỗ dựa vào nhiệt độ sôi khác nhau của các hydro cacbon có trong dầu thải, kết hợp tuần hoàn (hồi lưu) dòng sản phẩm lỏng khi đó sẽ tách triệt để các cấu tử hydro cacbon có nhiệt độ sôi khác nhau và thu được các phân đoạn sản phẩm dầu có chất lượng cao như: xăng, dầu diezen... [7].
Xử lý bóng đèn thải
Hiện nay có 8/36 cơ sở hành nghề xử lý CTNH do Tổng cục Môi trường cấp phép có hệ thống xử lý bóng đèn thải. Công nghệ này có ưu điểm là chi phí đầu tư trang thiết bị hợp lý, dễ vận hành, sau khi phân tách riêng bột huỳnh quang, thủy tinh có thể dùng làm nguyên liệu trong sản xuất xi măng
hoặc tái sử dụng thủy tinh sạch. Tuy nhiên, sau khi xử lý bóng đèn thải, quá trình hấp thụ hơi thuỷ ngân có trong bóng đèn thải sẽ tạo ra chất thải mới cần xử lý là muối thuỷ ngân [7].
Xử lý chất thải điện tử
Hiện nay chỉ có 4/36 cơ sở hành nghề xử lý CTNH do Tổng cục Môi trường cấp phép đầu tư công nghệ chuyên xử lý chất thải điện tử này, công suất trung bình tư 0,5 – 5 tấn/ngày. Các hệ thống này chủ yếu là thực hiện biện pháp phá dỡ, thủ công (như bàn phá dỡ đơn giản) hoặc cơ giới (máy nghiền), để phân tách từng thành phần cho các công đoạn xử lý tiếp theo như thu hồi phế liệu (kim loại, nhựa), đốt, hoá rắn.
Đối với các cơ sở có đầu vào nhỏ, thì việc phá dỡ thủ công là phù hợp, chủ yếu để đáp ứng đủ mã CTNH trong dịch vụ. Tuy nhiên, công đoạn phá dỡ thủ công có thể ảnh hưởng sức khỏe của công nhân do phải tiếp xúc trực tiếp với chất thải.
Công nghệ cơ giới hóa phù hợp với đầu vào lớn, đặc biệt là trong tương lai khi lượng chất thải điện tử phát sinh tăng đột biến. Hơn nữa, công nghệ hiện đại có thể tận thu được nhiều sản phẩm, đặc biệt là các kim loại quý [7].
Phá dỡ, tái chế ắc quy chì thải
Hiện nay, có 6/36 cơ sở hành nghề xử lý CTNH do Tổng cục Môi trường cấp phép đầu tư công nghệ xử lý này, công suất trung bình 0,5 – 200 tấn/ngày. Tái chế ắc quy chì thải là một trong những biện pháp tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường, cùng với sự phát triển của nền kinh tế lượng ắc quy chì thải ngày một tăng và việc xử lý không an toàn đối với chất thải này đã và đang gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người và môi trường. Chính vì vậy, hiện nay trên thực tế đang sử dụng các công nghệ tái chế từ đơn giản (thô sơ) đến hiện đại.
Hiện nay có một số đơn vị đã đầu tư và đưa vào sử dụng công nghệ hiện đại để tái chế ắc quy, toàn bộ quy trình xử lý được cơ giới, tự động hóa với
nguyên lý hoạt động như sau: bình ắc quy (có cả dung dịch axit) được đưa vào máy nghiền đồng thời có bổ sung dung dịch kiềm (sô đa) để trung hòa, sau đó hỗn hợp sau nghiền được đưa tới hệ thống phân tách bằng nước, nhựa có tỷ trọng bé nổi lên trên, còn chì có tỷ trọng lớn chìm xuống dưới và được vớt ra bởi gàu chuyên dụng. Hệ thống cơ giới hoá có công suất rất lớn do vậy nếu không có đủ nguyên liệu đầu vào thì sẽ không có hiệu quả kinh tế vì đầu tư rất tốn kém [7].
Nói chung, mỗi một công nghệ xử lý có những ưu nhược điểm riêng phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, điều kiện về môi trường và các quy định về pháp luật của từng khu vực mà áp dụng những mô hình xử lý khác nhau. Ở Việt Nam, thường sử dụng mô hình xử lý chất thải chủ yếu là chôn lấp, nhưng thực trạng ở đây là các bãi chôn lấp chất thải ở các địa phương, kể cả các đô thị lớn, được xây dựng chưa hợp vệ sinh và chưa được quy hoạch phù hợp với yêu cầu phát triển nhanh và rộng của sản xuất, kinh doanh cũng như đô thị hóa.
Phần III