Trong hoạt động ngôn ngữ, thao tác lựa chọn liên quan đến vốn ngôn ngữ vận dụng năng lực liên tƣởng để cung cấp cho sụ lựa chọn những đợn vị ngôn ngữ cần thiết, văn xuôi, thơ ca hay nói viết đều phải tuân theo nguyên tắc chung là lựa chọn và kết hợp. Việc lựa chọn từ ngữ, cách tổ chức các đơn vị ngôn ngữ để tạo nên câu, đoạn văn hay văn bản để truyền đạt một thông điệp nào đó thể hiện rất rõ năng lực ngôn ngữ của mỗi cá nhân, nhất là đối với các tác giả sáng tác văn chƣơng nghệ thuật. Trong ca dao về tình yêu đôi lứa, kết quả của những thao tác lựa chọn và kết hợp là những bài ca dao phản ánh đời sống tình cảm, nhận thức của nhân vật trữ tình, tƣ duy nghệ thuật của tác giả bình dân.
Vì ca dao có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức độc đáo nên trong mỗi bài ca dao, dù ngắn hay dài đều là một thể thống nhất hoàn chỉnh, một thông báo nghệ thuật hoàn chỉnh, hƣớng tới một chủ thể xác định. Mỗi bài ca dao biểu hiện một sự liên kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các yếu tố trực tiếp cấu thành câu ca dao. Qua khảo sát, chúng tôi thấy từ chỉ thời gian trong ca dao về tình yêu đôi lứa có khả năng giữ nhiều vai trò, chức vụ khác nhau trong câu.
2.2.3.1. Về khả năng làm thành phần nòng cốt câu a. Chủ ngữ
Trong Ca dao về tình yêu đôi lứa, từ chỉ thời gian giữ chức vụ chủ ngữ có cấu tạo là một từ, một cụm từ.
Khi chủ ngữ là từ:
Đôi ta như chim từ qui
Trông xuân rồi lại đợi hè
Thu qua không thấy, đông về cũng không
Ngày giang nắng, tối dầm sương Vì mình lao khổ, mình thương chăng mình?
Chủ ngữ là cụm từ (cụm chính phụ và cụm đẳng lập) Ai về ai ở lại đây
Chiều hôm vắng vẻ sớm mai lạnh lùng
Tháng giêng là tiết gió bay
Tháng hai gió mát, trăng bay vào đèn
Tháng ba gió đưa nước lên
Tháng tư gió đánh cho mềm ngọn cây
Tháng năm là tiết gió tây
Tháng sáu gió mát cấy cày tính sao...
Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau Rượu ngon chắt để bàn thờ
Ba bốn năm không lạt, sao giờ lạt đi
Đêm năm canh mơ màng tưởng tượng
Ngày sáu khắc nhớ bạn muốn tầm
Chủ ngữ là các từ ngữ chỉ thời gian trong ca dao về tình yêu đôi lứa chiếm số lƣợng khá nhiều trong các kiểu kết hợp. Các tác giả dân gian đã lựa chọn các
từ ngữ chỉ thời gian vừa để tái hiện dòng thời gian khách quan, vừa làm cái cớ, làm nhịp cầu để bày tỏ tâm tƣ tình cảm của ngƣời bình dân.
Thời gian là một khái niệm vừa cụ thể, vừa trừu tƣợng. Trong câu, cùng với không gian, thời gian thƣờng xuất hiện để giới hạn, hạn định một thời điểm nhất định để con ngƣời, nhân vật hoạt động trong đó. Trật tự kết hợp nhƣ trên tạo nên nét mới mẻ cũng nhƣ làm nổi bật nét riêng của từng thời gian xuất hiện trong ca dao về tình yêu đôi lứa nói riêng và ca dao nói chung.
b. Vị ngữ
Vị ngữ là một trong hai thành phần chính của câu. Vị ngữ thƣờng nêu lên hành động, tính chất, tình trạng của chủ ngữ đƣợc biểu hiện phong phú về từ loại, cấu trúc. Vị ngữ thƣờng do động từ, tính từ… đảm nhận, vị ngữ có thể là một từ, một cụm từ.
Vị ngữ là từ, cụm từ:
Chơi xuân kẻo nỡ quá thì Xuân qua ngoảnh lại, còn gì là xuân
Chị Sáu ơi! Trong cõi trần Chữ xuân chỉ có một lần mà thôi
Kể từ bạn với trúc mai Xuân qua, hè lại đã vài ba năm
Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau Một năm là mấy tháng xuân
Một ngày làmấy giờ dần hỡi ai…
Đêm đêm hướng dải Ngân Hà
Hôm ba mươi là ngày tháng chạp
Hôm mồng một làngày tháng giêng
Hôm nay mười bốn, mai rằm
Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ
Ở vị trí vị ngữ, yếu tố thời gian trở thành đối tƣợng để tác giả dân gian thể hiện những cảm nhận, suy nghĩ về thời gian nhƣng sâu sa chính là thể hiện cảm nhận, suy nghĩ về tình yêu, nỗi nhớ, sự chờ đợi…
2.2.3.2. Về khả năng làm thành phần phụ trong câu
Trong câu, ngoài hai thành phần chính chủ ngữ và vị ngữ, còn có thành phần phụ. Các thành phần phụ có tính độc lập tƣơng đối trong câu, không phụ thuộc ngữ pháp vào một thành tố nào của nòng cốt chính của câu, bổ sung ý nghĩa cho cả câu… Nó bổ sung ý nghĩa cho cả câu, ý nghĩa mà thành phần phụ biểu thị thƣờng là thời gian, nơi chốn, mục đích, phƣơng tiện cách thức, điều kiện… Từ chỉ thời gian trong ca dao về tình yêu đôi lứa có thể đảm nhiệm vai trò của trạng ngữ, đề ngữ.
a. Trạng ngữ
Trạng ngữ là thành phần phụ của câu thƣờng nêu lên ngữ cảnh, khung cảnh về không gian để làm rõ thêm cho nội dung thông báo, những ẩn dụ ngữ nghĩa trong câu. Trạng ngữ là thành phần phụ có thể bổ nghĩa cho toàn bộ nòng cốt câu ( Cả chủ ngữ và vị ngữ) hoặc chỉ bổ nghĩa cho một thành phần nào đó của câu. Trong thực tế, trạng ngữ cũng có thể là thành phần bổ nghĩa cho thành phần phụ của câu. Khi đƣợc dùng để bổ nghĩa cho toàn bộ nòng cốt câu, vị trí của trạng ngữ thƣờng ở trƣớc nòng cốt câu. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, nó có thể đƣợc đặt sau nòng cốt hoặc đặt giữa chủ ngữ và vị ngữ. Nếu đƣợc đặt giữa chủ ngữ và vị ngữ, nó phải đƣợc nhấn mạnh tách rời bằng quãng nghỉ khi nói bằng dấu phẩy khi viết và có thể kèm theo một kết từ thích hợp. Nếu chỉ là thành phần
phụ của một thành phần câu thì nó thƣờng không đƣợc nhấn mạnh hoặc không đƣợc đọc hay viết tách rời.
Từ chỉ thời gian trong Ca dao về tình yêu đôi lứa kết hợp với một số từ loại để tạo nên tổ hợp từ làm trạng ngữ trong câu.
Thông thƣờng, trạng ngữ đứng đầu câu. Ví dụ:
Đêm đông trường, em nghe con vượn cầm canh
Nghe chim mến tổ, nghe anh khuyên nàng
Đêm qua nguyệt đổi sao dời
Nhớ câu gắn bó nhớ lời giao đoan
Ngày xưa đá tạc nên vàng
Mảnh gương còn đó, phím đàn còn đây Người như cây cảnh trên chùa Tôi như chim nhạn đỗ nhờ nên chăng?
Ngày xưa tôi dặn người rằng:
Đâu hơn người lấy, đâu bằng đợi tôi
Chiều chiều én liệng nhàn bay
Ta đây nhớ bạn bạn rày nhớ ai
Có khi trạng ngữ đứng cuối câu. Ví dụ:
Chia tay than thở li bì
Xa nhau tưởng nhớ những khi giao đầu
Đoạn sầu mình dễ thở dễ than Sầu tôi khác thể nhan tàn đêm khuya
Vẳng nghe vượn hú trên cây Đâu lời thề thốt những ngày thuở xưa
b. Đề ngữ
Đề ngữ là thành phần phụ của câu, thƣờng đứng trƣớc nòng cốt câu để nêu trƣớc hay báo trƣớc đối tƣợng hay nội dung sẽ đƣợc đề cập tới trong câu, có khi đƣợc nhấn mạnh nhƣ một chủ đề. Yếu tố thời gian là đề ngữ trong Ca dao về tình yêu đôi lứa thƣờng dùng để nhấn mạnh những khoảng thời gian khác nhau nhằm diễn tả những tâm trạng, tình cảm khác nhau của nhân vật trũ tình, cũng nhƣ cách nhìn, cách cảm nhận của ngƣời bình dân xƣa.
Ví dụ:
Ba năm ăn ở nhà Tần
Lòng Tần nhớ Hán mười phần chưa quên
Bây giờ đã đến canh ba
Khuyên chàng về mộng, để gái đào hoa đi nằm
Bốn mùa xuân hạ thu đông
Thiếp ngồi canh cửi chỉ trông bóng chàng
Bốn mùa rồi lại bốn phương
Thiếp ngồi canh cửi trông chàng bấy lâu
Năm canh sáu khắc còn dư
Thương chàng một nỗi tương tư đêm ngày
Năm canh sáu khắc còn chày
Thương chàng một nỗi mình gầy xác ve
Sự có mặt của đề ngữ nhƣ trên góp phần khắc họa rõ nét hơn những cảm nhận, suy nghĩ của nhân vật trữ tình, từ đó tác giả dân gian truyền đến ngƣời đọc những ấn tƣợng về thời gian (mà phần nhiều là thời gian tâm tƣởng, thời gian tâm lý) đƣợc nhân vật trữ tình giãi bày qua các bài ca dao.
Tóm lại, về đặc điểm ngữ pháp của các từ ngữ chỉ thời gian trong Ca dao về tình yêu đôi lứa rất đa dạng, phong phú, thể hiện những sáng tạo trong việc
tổ chức ngôn từ để tác giả dân gian xây lên những “lâu đài ngôn ngữ”, đồng thời cảm nhận độc đáo và tinh tế về thời gian.