Biểu hiện tính phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương

Một phần của tài liệu Đặc trưng ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương (Trang 54 - 58)

a. Từ láy hai âm tiết hay láy đô

3.1.3. Biểu hiện tính phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương

Nhà thơ Tản Đà phê bình thơ Hồ Xuân Hương như sau: "Thơ của Hồ Xuân Hương thật là linh quái, những câu thơ đọc lên thấy ghê người. Người ta thường có câu: Thi trung hữu họa nghĩa là trong thơ có vẽ. Như thơ Hồ Xuân Hương thì lại là: Thi trung hữu quỷ nghĩa là trong thơ có ma! Song mà nhận ra thời tục" [18, tr.161]. Hoặc ông viết trong một bài ca:

Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương

Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai

Cho hay mệnh bạc có trời

Đồng cân đã nặng bên tài thì thôi

Suy cho cùng ý nghĩa cơ bản của những biểu tượng dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương chính bắt rễ từ yếu tố phồn thực từ dân gian mà ra.

"Biểu tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương là biểu tượng của văn hóa tôn giáo, chúng tồn tại và hình thành từ xa xưa"[18, tr.270]. Bằng thứ ngôn ngữ bình dân, quen thuộc nhà thơ đã lột tả được cái gọi là siêu mẫu tồn tại vô thức trong cộng đồng dưới dạng huyền thoại, cổ tích... Đó là cái quạt, là cái giếng, đèo Ba Bội, trống thủng, đánh đu, tát nước...Đó là những biểu hiện rõ nét nhất tính phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương. Biểu tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương rất đa dạng và phong phú, để dễ tiếp cận sâu với văn bản hơn chúng tôi đã chia ra thành 4 loại như sau:

-Các hình ảnh gợi liên tưởng đến bộ phận của cơ quan sinh dục phụ nữ như: hang (Cắc cớ -Thanh Hóa), động (Hương tích), đèo (Ba bội), kẽm (Trống), giếng (Cầu trắng phau phau đôi ván ghép), lỗ (Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không), kẽ rêu (Trưa trật nào ai móc kẽ rêu), cái quạt (Chành ra ba góc da còn thiếu, khép lại đôi bên thịt vẫn thừa), miệng túi (Càn khôn)...

- Các hình ảnh gợi liên tưởng đến bộ phận cơ quan sinh dục nam như: sừng (Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa), cán cân (Cán cân tạo hóa rơi đâu mất), dùi trống (Trống thủng vì chưng kẻ nặng dùi), con suốt (đâm ngang thích thích mau), cọc (Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không), hòn đá (đâm toạc chân mây)...

- Các hình ảnh gợi hành động tính giao: đánh đu (Trai đu gối hạc khom khom cật/ Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng), dệt cửi (Hai chân đạp xuống năng năng nhắc/ Một suốt đâm ngang thích thích nhau), đánh trống (Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc/ Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi), châm (Ong non ngứa nọc châm hoa rữa), húc (Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa), trèo (Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo)...

- Biểu tượng thân thể và các bộ phận gợi cảm của phụ nữ: Bánh trôi (Thân em vừa trắng lại vừa tròn), quả mít (Da nó xù xì múi nó dày), mặt trăng (Đêm trăng cớ chi phô tuyết trắng, Ngày xanh sao nỡ tạo lòng son), bồng đảo (Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm), lưng ong (Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng), nương long (Yếm đào trễ xuống dưới nương long), mông đít (Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve)...

"Biểu tượng phồn thực chia ra hai loại là biểu tượng gốc và biểu tượng phái sinh. Biểu tượng gốc là những biểu tượng đã tồn tại lâu đời trong đời sống cộng đồng, trong lễ hội tập tục thờ cúng, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân: hang, động, lỗ đó là những sáng tạo của cộng đồng từ xa xưa" [18, tr.272]. Trước hết chúng còn liên quan đến những huyền thoại về cột vũ trụ, trứng vũ trụ, trời và đất, đực và cái, âm và dương...Theo quan niệm của người xa xưa thì trời là cha đất là mẹ, nên tuyệt nhiên hang, động, giếng ta hiểu đó là âm vật.

Thơ Hồ Xuân Hương các biểu tượng hang, động, đèo thể hiện rất rõ. Bài thơ Động Hương tích (Chùa Hương) là một ví dụ:

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm!

Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom

Người quen cõi phật chen chân xọc

Kẻ lạ bầu tiên mỏi măt dòm

Giọt nước hữu tình rơi thánh thót

Con thuyền vô trạo cúi lom khom

Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại

Rõ khéo trời già đến giổ dom

Các cụm từ: nứt làm đôi, chen chân xọc, cúi lom khom...Bên cạnh nghĩa thứ nhất tả cảnh chùa chiền với một khung cảnh, con người thơ mộng thì nghĩa thứ hai là nghĩa ngầm rất Xuân Hương tả âm vật và hoạt động tính giao của con người. Ở đây Hồ Xuân Hương nói đến các hang động, chùa chiền đó là những nơi thiêng liêng, nơi thờ thần cúng phật. Có người khi đọc bài thơ này cho rằng đây là một sự đả kích tôn giáo. Chúng tôi nghĩ không hẳn là như thế. Các hình ảnh và hoạt động trong bài thơ này đều gợi đến các bộ phận sinh dục và hoạt động tính giao. Các sự vật được dùng trong tín ngưỡng cũng mang biểu tượng phồn thực. Những ngọn tháp cũng mang bóng dáng của dương vật. Que hương thân tròn chân vuông là biểu tượng của Linga và Yôni được cắm vào bình hương là hoạt động tính giao.

"Biểu tượng phái sinh ngược lại là sáng tạo riêng của nhà thơ" [18, tr. 272]. Những biểu tượng này không có nghĩa tự thân ngoài văn bản thơ, hay đúng hơn ở ngoài đời chúng mang nghĩa khác nhưng trong thơ Hồ Xuân Hương chúng lại mang nghĩa phồn thực. Trong đời sống hàng ngày biết bao sự vật, hành động ta thường gặp, quen đến nhẵn mặt, không hề có một ý nghĩa nào khác vậy mà trong thơ Hồ Xuân Hương chúng lại mang một ý nghĩa khác, như mặt trăng (Một trái trăng thu chín mõm mòm/ Nảy vừng quế đỏ lỏm lòm lom...), các vị thuốc, giao cầu thuyền tán (Thạch nhũ trần bì sao

để lại, Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ...). Việc dệt cửi được miêu tả theo hướng phồn thực:

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau

Con cò mấp máy suốt đêm thâu

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc

Một suốt đâm ngang thích thích mau.

Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,

Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau.

Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ

Chờ đến ba thu mới giãi màu.

Bài thơ rõ ràng có hai lớp nghĩa. Nghĩa thứ nhất là tả người dệt cửi. Từ khung cảnh ban đêm, màu trắng của sợi, các bộ phận của khung cửi như con cò, suốt, khuôn khổ...đến các động tác của người và công cụ lao động (Hai chân đạp xuống năng năng nhấc, Một suốt đâm ngang thích thích mau), đều được miêu tả chính xác. Hai câu kết như một lời bình luận của tác giả, khớp với nghĩa thứ nhất và làm nổi lên nghĩa thứ hai. Như vậy mỗi một từ một câu trong bài thơ của Hồ Xuân Hương đều ánh lên hai nghĩa: nghĩa phô và nghĩa ngầm, nghĩa thanh và nghĩa tục. Đúng như nhận xét của Xuân Diệu : "Thơ Hồ Xuân Hương tục hay là thanh? Đố ai bắt được: Bảo rằng nó hoàn toàn là thanh, thì cái nghĩa thứ hai có dấu được ai, mà Hồ Xuân Hương có muốn dấu đâu. Mà bảo nó là nhảm nhí, là tục, thì có gì là tục nào?".

"Như vậy những biểu tượng phồn thực nói chung và biểu tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương nói riêng đều có hai mặt lấp lửng của nó giống như hai mặt của một tờ giấy, có mối quan hệ khăng khít lẫn nhau. Chúng luôn vận động và chuyển hóa tạo sự hòa quyện gắn bó với nhau" [18, tr.280]. Mỗi bài thơ của Xuân Hương, đằng sau cái ý nghĩa đời thường, ý

nghĩa xã hội chính là ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng phồn thực, đằng sau cái con người xã hội là con người vũ trụ. Hồ Xuân Hương đã làm được điều mà tưởng như không thể làm được, cái không thể tuyệt nhiên đã trở thành có thể. Trước Hồ Xuân Hương không có ai đã đành. Sau Hồ Hương cũng không có ai vì muốn làm được như vậy phải trên cơ sở tín ngưỡng phồn thực đã trở thành cái nhìn nghệ thuật của thế giới.

Một phần của tài liệu Đặc trưng ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương (Trang 54 - 58)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(66 trang)
w