4. Định giá trong thực tiễn:
4.1 Vùng đồng trũng Hadejia-Nguru ở miền Nam Nigeria
Tại vùng Đông Bắc Nigeria, một vùng đồng trũng rộng lớn được hình thành tại nơi hợp nhất của các con sông hadejia và Jama tạo thành sông Komadugu-Yobe chảy vào hồ Chad. Mặc dù được xem như là khu đất ngập nước Hadejia-Nguru, nằm phía sau hai thành phố chính trong khu vực, hầu hết vùng đồng trũng hoàn toàn khô ráo theo thời kỳ hoặc quanh năm. Trong những năm gần đây, qui mô của vùng ngập nước đã mở rộng từ 70,000 lên tới 90,000 hecta do các công trình phát triển trên thượng nguồn và những trận hạn hán, nhưng khu đồng trũng này đã từng có lúc rộng tới 300,000 hecta (Hollis và cộng sự, 1993). Ông Barier và cộng sự (1993) đã thực hiện một cuộc định giá từng phần để đánh giá tầm quan trọng kinh tế của vùng đồng trũng Hadejia-Nguru, và bởi vậy đánh giá chi phí cơ hội của việc mất diện tích ngập nước này đối với Nigeria. Các tác giả đã ước tính một số giá trị sử dụng trực tiếp quan trọng mà vùng đồng trũng này đem lại cho dân địa phương thông qua việc khai thác các tài nguyên của nó.
Vùng đồng trũng Hadejia-Nguru cung cấp nguồn thu nhập cần thiết và những lợi ích dinh dưỡng dưới hình thức nông nghiệp, các tài nguyên đồng cỏ, các sản phẩm rừng không phải là gỗ, củi và cá cho cư dân địa phương. Vùng đồng trũng ngập nước này cũng phục vụ cho các mục đích kinh tế vùng rộng rãi hơn, như là cung cấp cỏ vào mùa khô cho những người dân nửa du mục, những sản phẩm nông nghiệp dôi dư cho các bang láng giềng, và bổ xung nước ngầm cho tầng ngậm nước tạo thành hồ Chad và các nguồn nước bảo đảm cho những lúc bị hạn hán. Thêm vào đó, khu ngập nước là môi trường sinh sống duy nhất cho các loài chim nước di trú, nhất là các loài chim cao cẳng từ những vùng Cổ Bắc cực, và bao gồm các khu bảo tồn rừng. Khu vực này bởi vậy có tiềm năng lớn về du lịch, khoa học và giáo dục.
Nước là nguồn tài nguyên hạn hẹp cho sự phát triển trong khu vực. Trong vài thập niên gần đây, các vùng ngập nước Hadejia-Nguru đã trải qua áp lực ngày càng gia tăng do hạn hán và cơ cấu nguồn nước. Việc lưu giữ nước ở những đập chứa nước thượng nguồn được sử dụng cho việc tưới tiêu, đã làm giảm đi quy mô của các dòng chảy tràn vào đầm. Thêm vào đó, nhu cầu gia tăng về nước tưới tiêu thuỷ lợi cho nông nghiệp vùng hạ lưu có thể dẫn tới việc dẫn nước vòng qua khu đầm thông qua việc xây dựng những kênh dẫn nước. Nhu cầu sử dụng của con người ngày càng lớn trong chính khu vực đồng trũng cũng đang tạo ra áp lực đối với khu ngập nước.
Những công trình phát triển này đang được xây dựng một cách thiếu cân nhắc không tính tới những tác động của nó tới khu vực ngập nước Hadejia-Nguru hay những tổn thất tất yếu về kinh tế hiện đang diễn ra do việc khai thác khu đồng trũng. Nước bị dẫn ra để sử dụng trên vungf thượng lưu và hạ lưu rõ ràng làm phát sinh một chi phí cơ hội dưới hình thức các lợi ích khác nhau của đất ngập nước tạo bởi vùng đồng trũng. Những công trình phát triển ở thượng lưu và hạ lưu không nên tiến hành trừ khi người ta có thể chứng minh được rằng những lợi ích tổng cộng đạt được do những công trình phát triển đó lớn hơn những lợi ích ròng đã bị mất đi do tổn thất đất ngập nước tại vùng đồng trũng Hadejia-Jama’are
Một đánh giá bộ phận đã được tiến hành nhằm xác định tầm quan trọng kinh tế của khu ngập nước Hadejia-Nguru, và tại đó xác định chi phí cơ hội do tổn thất vùng ngập nước đối với Nigeria, bằng cách ước tính một số giá trị sử dụng trực tiếp quan trọng mà vùng đồng trũng cung cấp cho cư dân địa phương thông qua các sản phẩm hoa màu, củi đun và thuỷ sản. Phân tích kinh tế chỉ ra rằng những lợi ích này thiết yếu trên cả phương diện yếu tố hoa lợi trên mỗi hecta và nguồn nước đầu vào - nghĩa là lượng nước tràn cực tiểu và cực đại cần thiết để duy trì những lợi ích này. Điều này tỏ ra là đúng kể cả khi các lợi ích nông nghiệp được điều chỉnh tính tới tính không lâu bền của sản xuất lúa mì đòi hỏi bơm tưới tiêu quá nhiều trong khu vực ngập nước. Như trình bày trong bảng 4 dưới đây, hiện giá trị thuần của các lợi ích tích
tụ của cả nông nghiệp, thuỷ sản và chất đốt được ước tính vào khoảng 253 tới 381 Naira trên mỗi hecta (34-51 USD), hay khoảng 72 tới 109 Naira (10-15 USD) trên mỗi ngàn mét khối (giá cả năm 1989/90 dựa trên các số liệu mức nước tràn cực đại).
Tầm quan trọng kinh tế của đất ngập nước mang ý nghĩa là sẽ có một tổn thất về kinh tế ( một chi phí cơ hội) gắn liền với mọi cơ chế dẫn tới sự suy thoái của hệ thống vùng đồng trũng, ví dụ như việc trích nước từ đó ra để sử dụng cho mục đích khác. Khi được so sánh với các lợi ích kinh tế thuần của dự án sông Kano, hiệu quả kinh tế đối với vùng đồng trũng trở đáng ưu tiên hơn nhiều (xem bảng 4.1). Đây là trường hợp đặc biệt khi lợi nhuận tương đối đối với dự án, dưới hình thức sử dụng nước đầu vào, được so sánh với những lợi nhuận của hệ thống đồng trũng.
Bảng 4.1 - So sánh hiện giá thuần các lợi nhuận về kinh tế tổng cộng của Dự án sông Kano và vùng ngập nước Hadejia-Nguru, ở Nigeria*
Tỉ lệ chiết khấu Chu kỳ 8% 50 năm 8% 30 năm 12% 50 năm 12% 30 năm 1. Tổng lợi nhuận vùng đất ngập nước (nghìn Naira)**. Dự án sông Kano 278.127 4.451 256.340 4.096 190.013 3.022 184.446 2.0931 2. Lợi nhuận trên mỗi
hecta đất ngập nước (Naira/ha) *** Dự án sông Kano 381 233 351 214 260 158 253 153 3. Lợi nhuận trên mỗi
Mét khối nước sử dụng (N/m3) khu đầm****. Dự án sông Kano 109.112 0,3 100.565 0,3 74.544 201 72.360 195
Nguồn: Barbier, Adams và Kimmage (1993)
Lưu ý: * 7.5 Naira = US$ 1.00 (thời giá năm 1989/1990)
** Trên cơ sở lợi nhuận tổng cộng từ nông nghiệp, củi đốt và sản phẩm thuỷ sản quy cho khu ngập nước Hadejia-Nguru và các lợi nhuận ròng tổng cộng do sản xuất hoa màu được tưới tiêu nước từ dự án sông Kano.
*** Trên cơ sở 230.000 hecta đất trồng trọt, 400.000 hecta rừng và 100.000 hecta nuôi trồng thuỷ sản và khu vực sản xuất tổng cộng 730,000 hecta của khu đầm Hadejia-Nguru và tổng diện tích khu vực canh tác 19.017 hecta trong năm 1985/86 cho Dự án sông Kano.
**** Giả sử lưu lượng trung bình hàng năm chảy tràn vào khu ngập nước là 2549 triệu m3 nước, lượng nước sử dụng hàng năm là 15 nghìn m3 cho mỗi hecta cho Dự án sông Kano
Hơn nữa, như đã đề cập ở trên, còn có những lợi ích kinh tế quan trọng khác phát sinh từ hệ thống đồng trũng ngoài những lợi ích được ước ính trong phân tích. Giá trị tổng cộng của những lợi ích bổ xung này có thể trên thực tế vượt hơn hẳn các lợi ích thu được từ nông nghiệp, thuỷ sản và củi đốt vùng đồng trũng. Có thể là chức năng môi trường quan trọng nhất của vùng đất ngập nước Hadejia-Nguru chính là vai trò điều tiết tầng nước ngầm thành hệ hồ Chad. Những bằng chứng trình bày do Hollis và cộng sự (1993) chỉ ra rằng sự giảm mức nước tràn vào vùng đồng trũng dẫn tới mức tích tụ tầng nước ngầm thấp hơn. Kể từ năm 1983, khi qui mô nước tràn giảm đi một cách đáng kể thì mực nước ngầm giảm lượng tích lũy ước tính 5000 tỉ m3. Tổn thất liên tục của mức tích trữ và hồi phục nguồn nước ngầm sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đối với nhiều làng nhỏ trong toàn khu vực sử dụng nước giếng từ tầng
ngậm nước cho việc sử dụng cho sinh hoạt và cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đánh giá những ảnh hưởng này là khó khăn nhưng có thể thực hiện được thông qua các phép đo trực tiếp hoặc gián tiếp về Mức thuận trả cho nước của các nông dân.
Tóm lại, tầm quan trọng kinh tế của vùng ngập nước Hadejia-Nguru gợi ý rằng những lợi ích nó mang lại không thể bị loại trừ như một chi phí cơ hội của bất kỳ cơ chế lấy nước ra khỏi khu vực đồng trũng. Phân tích chỉ ra rằng có cơ hội thiết kế và vận hành các đập chứa nước thượng lưu để tạo ra cơ chế tràn nhân tạo, như gợi ý bởi Hollis và cộng sự (1994). Hiện giá thuần tổng cộng của các lợi ích kinh tế liên quan tới giải pháp này sẽ từ 375 tới 565 Naira ( 50 - 75 US$) cho mỗi 1000 m3 nước được tháo (bao gồm một điều chỉnh vùng đất canh tác trồng lúa mì không có khả năng duy trì), so với 242 - 366 Naira (32 - 49 US$) cho mỗi 1000 m3 nước dưới điều kiện luồng chảy trung bình hàng năm từ năm 1985 - 1987, tức là cao hơn 38% yêu cầu ước tính cho việc tiêu nước có kiểm soát. Số liệu sau tương đồng với những tính toán cho mỗi hecta trong bảng 4.1. Mặc dù một chế độ tiêu nước có kiểm soát có thể là không đủ để duy trì sự phục hồi nước ngầm với các mức như hiện tại, nhưng chế độ này sẽ cung cấp một lượng nước tối thiểu cần thiết để duy trì các lợi ích nông nghiệp, thuỷ sản và chất đốt của vùng đồng trũng.