MỤC LỤC
Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương xứng với quy mô sản xuất và tổng cầu không tương xứng với tổng cung. Phân tích trọng tâm về khu vực phi chính thức ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy Việt Nam là quốc gia duy nhất trong số các nền kinh tế đang nổi lên ở khu vực Đông nam Á không rơi vào tình trạng suy thoái năm 2009 dưới tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Vùng Đông Nam Bộ với điều kiện tự nhiên phong phú cho phép sản xuất nhiều cây trồng có hiệu quả kinh tế như cao su, cà phê,… Đặc điểm của đất đai này cho phép Việt Nam phát triển những loại cây trồng cho năng suất cao, có giá trị kinh tế lớn mà không phải quốc gia nào cũng có được. Điều kiện tự nhiên thuận lợi về khí hậu, lượng mưa, độ ẩm trong không khí hay năng lượng bức xạ của mặt trời… phân bố không đều giữa các mùa trong năm đã tạo những điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp theo nghĩa rộng và công nghiệp năng lượng mới (năng lượng sạch). Khoảng 90% lúa gạo xuất khẩu được sản xuất tại đồng bằng sông Cửu Long, 80% sản lượng cà phê được sản xuất ở Tây Nguyên, 85% lượng cao su sản xuất và xuất khẩu ở vùng Đông Nam Bộ Nhiều mặt hàng nông sản có sự gia tăng về cả giá trị lẫn chất lượng, một số mặt hàng như : gạo, cà phê, cao su cùng với thủy sản đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Vấn đề cốt lừi hiện nay là biết phỏt huy những lợi thế tự nhiên đó để nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu bằng những giải pháp hữu hiệu về khoa học – công nghệ và chính sách nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trong năng suất và chất lượng lao động xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực xuất khẩu, gồm cả chất lượng quản lý, điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước và chất lượng lao động trong các doanh nghiệp được cải thiện, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của cả hệ thống phục vụ cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Sự tăng nhanh của các xã có cơ sở chuyên chế biến cũng như số lượng cơ sở chế biến trong những năm qua đã góp phần phục vụ tốt hơn yêu cầu sơ chế và chế biến nông, lâm và thuỷ sản, từng bước gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ các sản phẩm này, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập của hộ gia đình nông dân, ngư dân, phát triển khu vực dịch vụ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, phát triển.
Tuy nhiên từ năm 2001 đến năm 2011, diện tích tăng giảm không đồng đều, chứng tỏ có sự đô thị hóa lấn chiếm đất nông nghiệp đồng thời cũng tiếp tục khai hoang mở rộng đất nông nghiệp. Mặc dù thị trường cà phê thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhưng không thể phủ nhận là Việt Nam có lợi thế so sánh cao với mặt hàng này. Cây cà phê là một trong những cây công nghiệp lâu năm có giá trị xuất khẩu cao và chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm của Việt Nam.
Do đặc thù của cây cà phê phát triển rất tốt và phù hợp với loại đất đỏ bazan, nên ở Việt Nam, cây cà phê được trồng nhiều tại các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ như Đắc Lắc, Gia Lai, Đắc Nông, Lâm Đồng, Bình Phước,…. Mặc dù nhà nước khuyến cáo giữ ổn định diện tích nhưng do giá cà phê tăng trở lại và đạt mức trên 2.205 USD/tấn vào năm 2011 người dân vẫn tiếp tục mở rộng diện tích. Là kết quả của quá trình đầu tư thâm canh cao, tuy nhiên cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến xuy thoái nhanh vườn cà phê đang kinh doanh hiện nay.
Do các yếu tố đầu vào của Việt Nam thấp, chi phí vận chuyển cà phê đến cảng xuất khẩu thấp, lợi thế về khoảng cách vận chuyển, các vùng sản xuất cà phê chính của Việt Nam đều gần các cảng xuất khẩu do Việt Nam có chiều ngang hẹp và chi phí lao động rẻ hơn so với các nước xuất khẩu cà phê khác, giá thành sản xuất thấp nên có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường. Nguyên nhân của điều này là bởi trong năm 2012 giá thành cao su Việt Nam đã hạ thấp 33% trong bối cảnh giảm sút nhu cầu từ phía Trung Quốc, vốn là khách mua chính, cũng như do mở rộng sử dụng cao su tổng hợp nhân tạo thay thế cho sản phẩm tự nhiên. Bước sang năm 2013, Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA) dự báo những khó khăn sẽ vẫn tiếp diễn và ước lượng sản lượng cao su thiên nhiên của Việt Nam cũng sẽ đạt khoảng 1 triệu tấn, với mức giá bình quân của cao su xuất khẩu khoảng 2.700 USD/tấn và kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt khoảng 2,7 tỷ USD trong năm 2013.
Theo Trung tâm Tin học và Thống kê, Bộ Nông nghiệp và PTNT, giá thu mua mủ cao su dạng nước tại Bình Phước những ngày đầu tháng 2 đạt 16.000 đồng/kg, mức giá này được duy trì từ tuần cuối của tháng 1/2013. Mặc dù có sự nhích nhẹ về giá trong những tháng đầu năm 2013, tuy nhiên, theo Hiệp hội Cao su Việt Nam trong năm 2013, cần tiếp tục thúc đẩy phối hợp giữa doanh nghiệp và người dân trồng cao su để giữ mức giá tốt nhất, tránh gây hỗn loạn thị trường, giá thấp. Cùng với đó, để tiếp tục hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, trong thời gian tới, ngoài việc tăng cường trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp cần tiếp tục nâng cao chất lượng và chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nhằm phù hợp hơn với nhu cầu thị trường.
Sự phát triển ổn định của ngành nông lâm thủy sản, nhất là sản lượng lương thực vượt mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 và Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010, an ninh lương thực quốc gia đảm bảo, nên đời sống nhân dân nói chung và cư dân nông thôn ngày càng được cải thiện, thu nhập ngày càng cao. Tổng diện tích cà phê già cỗi cần phải trồng thay thế và chuyển đổi trong 5 -10 năm tới khoảng 140 - 160 nghìn ha, do thâm canh quá mức, không cây che bóng, thoái hoá đất và nhất là bị sâu bệnh (tuyến trùng, nấm) gây hại nặng ảnh hưởng đến sản lượng và hiệu quả đầu tư thâm canh của người sản xuất. Việc hình thành các tổ chức sản xuất cà phê chưa được quan tâm; Phân loại và các chỉ tiêu phân hạng chất lượng cà phê Việt Nam còn chưa chặt chẽ; Chưa có chính sách để các nhà sản xuất và chế biến áp dụng các tiêu chuẩn trong sản xuất và thu mua cà phê, khi xuất khẩu không cần thủ tục chứng nhận chất lượng do vậy đa số các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê thường không quan tâm áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng trong thu mua cà phê.
Trong thời gian dài, nhà nước đã tham gia tích cực vào nhiều lĩnh vực của ngành cà phê không chỉ bằng các chính sách và quy định để quản lý ngành mà còn có nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích sản xuất và kinh doanh cà phê như tín dụng ưu đãi cho người trồng và xuất khẩu cà phê, thưởng xuất khẩu, chương trình giống, chương trình khuyến nông, chương trình xúc tiến thương mại tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho ngành cà phê. Tuy nhiên quan hệ đối tác nhà nước và tư nhân có đại diện của tất cả các bên liên quan như nông dân cà phê, nhà kinh doanh, xuất khẩu, rang xay, nghiên cứu, khuyến nông và các nhà hoạch định chính sách chưa có sự liên kết trong ngành cà phê vì vậy người sản xuất cà phê nhất là các hộ sản xuất nhỏ hiệu quả sản xuất không cao và thường không quan tâm đến chất lượng sản phẩm cuối cùng làm cho chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam thấp và không đồng đều. Nhìn chung, sản xuất cà phê vẫn đang còn bộc lộ một số tồn tại: công tác quản lý chất lượng cà phê còn hạn chế; chưa hình thành các tổ chức liên kết trong sản xuất cà phê nhất là ở khu vực sản xuất nông hộ, thiếu sự điều phối giữa các tác nhân trong ngành; diện tích cà phê già cỗi cần cải tạo chiếm tỷ lệ khá lớn.
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY