Xu hướng FDI toàn cầu 3 năm gần đây: Vai trò chi phối của các công ty xuyên quốc gia

MỤC LỤC

Sức mạnh chi phối dòng chảy FDI toàn cầu của các TNCs ( Công ty xuyên quốc gia)

Theo UNCTAD, TNCs( Transnational Corporations) hay còn gọi là các công ty xuyên quốc gia được định nghĩa như sau: “ TNC là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc vô hạn bao gồm công ty mẹ và các chi nhánh ở nước ngoài. Các công ty mẹ là các công ty mà việc kiểm soát tài sản của các thực thể kinh tế khác ở nước ngoài thường được thực hiện thông qua việc góp cổ phần của chúng. Tổng giá trị gia tăng có nguồn gốc từ nước ngoài trên toàn cầu chiếm khoảng 11% GDP thế giới, và tổng số lao động bên ngoài nước tăng tới 82 triệu người.

Các nước đang phát triển thì các nước Châu Á và Châu Đại Dương chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là Mỹ La tinh & Caribee, các nước ở Đông & Nam Âu và các nước Châu Phi. Xét về tỷ lệ trong tổng vốn cố định (Gross fixed capital formation - GFCF) thì vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển còn chiếm tỷ lệ cao hơn một số nước phát triển. Năm 2008 con số này giảm xuống mức thấp kỷ lục còn 57,9% do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới mà nhóm các nước phát triển là tâm chấn.

Thứ nhất: Sự chuyển biến từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức làm mất dần lợi thế của các nước đang phát triển về lao động và tài nguyên. Thứ hai: Do tác động của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nên những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao ngày càng chiếm lĩnh thị trường và mang lại lợi nhuận cao cho nhà sản xuất. Thứ ba: Các nước phát triển có nhiều điều kiện hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư như cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt, hệ thống pháp luật được xây dựng chặt chẽ và nhất quán, trình độ khoa học kỹ thuật cao, trình độ tay nghề của người lao động và người quản lý cao….

Do vậy, đầu tư vào các nước này sẽ giúp các TNCs thâm nhập được vào thị trường nội địa và tránh được những quy định khắt khe về hàng nhập khẩu (môi trường, bao bì, nguyên vật liệu nội địa, kiểm dịch vệ sinh)…. Vào những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các TNcs trên thế giới tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp khai thác và chế tạo. Trong bản Báo cáo Đầu tư thế giới 2008, có ghi: “ Các công ty sản xuất và các công ty dầu lửa như General Electric, British Petroleum, Shell, Toyota và Ford Motor vẫn giữ những vị trí đứng đầu trong bảng xếp hạng của UNCTAD về 25 TNCs lớn nhất trên thế giới.

Sự nổi lên của các quỹ SWFs như một hình thức mới trong các hình thức đầu tư trực tiếp

Sự nổi lên của các quỹ SWFs như một hình thức mới trong các hình thức đầu. Investment Corporation), Nauy, Ả rập Saudi, Kuwait, Trung Quốc (CIC China Investment Company Ltd), Nga, Singapore (Temasek Holdings), Mỹ (APFC Alaska Permanent Fund). Được tích lũy lại từ các khoản dự trữ trong những năm gần đây, các quỹ SWFs ( kiểm soát khoảng 5 nghìn tỷ USD ) có khả năng chia sẻ rủi ro và mang về khoản thu mong muốn cao hơn so với các quỹ truyền thống khác được quản lý bởi các nhà chức trách tiền tệ. Mặc dù đã được hình thành từ những năm 1950 nhưng các quỹ SWFs mới chỉ thu hút được sự quan tâm trên phạm vi thế giới trong vài năm trở lại đây khi tham gia vào một vài vi vụ mua lại và sát nhập xuyên quốc gia quy mô lớn và hỗ trợ vốn cho các tổ chức tài chính của các nước phát triển khi khó khăn.

Tuy SWFs đầu tư dưới hình thức FDI vẫn còn tương đối nhỏ nhưng đã có sự tăng lên trong những năm gần đây ( xem bảng 2). Tuy nhiên, trong số 39 tỷ USD đầu tư ra nước ngoài của quỹ này trong suốt hơn 20 năm qua, thì có đến hơn 31 tỷ USD là được thực hiện trong vòng 3 năm lại đây. Các hoạt động gần đây của các quỹ SWFs đã được đẩy nhanh bằng việc tích lũy khoản dữ trự một cách nhanh chóng nhờ vào thặng dư thương mại, thay đổi cơ bản các nguyên tắc kinh tế thế giới và mở ra những cơ hội đầu tư mới tại các công ty mà nền tảng tài chính còn chưa đủ mạnh.

Có đến 75% FDI của các quỹ này là đầu tư vào các nước phát triển trong khi đầu tư và các nước Châu Phi và Châu Mỹ Latinh còn hết sức nhỏ giọt. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu là dịch vụ và dịch vụ thương mại.Trong giai đoạn 2006-2007 đầu tư của SWFs vào ngành ngân hàng đã được chú trọng bởi tính ổn định của nó trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, các quỹ này cũng đã gây ra một số phản ứng tiêu cực từ phía công chúng thể hiện qua những lời kêu gọi buộc phải hạn chế hoạt động đầu tư của quỹ đặc biệt là với vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia.

Các tổ chức quốc tế như quỹ tiền tệ quốc tế IMF và Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển OECD đang trong quá trình thiết lập những.

Dù vẫn tồn tại các rào cản nhưng nhìn chung các chính sách đều được sửa đổi nhằm thu hút FDI

Trong một vài ngành công nghiệp, các biện pháp nhằm hạn chế sở hữu nước ngoài hay bảo hộ quyền sở hữu của các công ty nhà nước cũng tăng lên. Các chính sách này được thực hiện chủ yếu trong các ngành công nghiệp khai khoáng và các ngành công nghiệp có tầm quan trọng chiến lược. Điển hình ở một số nước: ở Algeria, các hãng dầu mỏ của nhà nước phải nắm trong tay ít nhất 51% cổ phần.

Ở Bolivia, bằng các hợp đồng mới các TNCs phải chuyển quyền sở hữu dầu mỏ cho các công ty nhà nước. Trong khi đó ở liên bang Nga, đầu tư nước ngoài bị hạn chế trong các ngành mũi nhọn như công nghiệp vũ khí và công nghiệp khai khoáng, chỉ với một số cổ phần nhất định các nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ. Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế hiện nay, đầu tư nước ngoài toàn cầu khó tránh khỏi xu hướng chung này.

Các chính phủ cần có các biện pháp chống lại xu hướng bảo hộ đang có nguy cơ gia tăng trong môi trường đầu tư quốc tế. Dòng vốn FDI đang đứng trước nguy cơ sụt giảm nghiêm trọng trong các dự án ngắn hạn và trung hạn. Những nước này đã thông qua hoặc đang cân nhắc nghiêm túc luật hạn chế đầu tư nước ngoài hay giám sát chặt chẽ hơn bằng các quy định của chính phủ.

Trong khi đó, các nhà kinh tế vẫn khẳng định “tự do hóa đầu tư” là động lực lớn nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới. Ngược lại, xu hướng tăng cường bảo hộ có thể khiến cho cuộc khủng hoảng trên các thị trường vốn toàn cầu trầm trọng thêm và làm giảm đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong những năm tới. Hạn chế đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến tổn thất đáng kể cho hệ thống kinh tế toàn cầu, làm giảm lợi ích của các nhà đầu tư, ở nước chủ đầu tư và cả nước tiếp nhận đầu tư.

Thực tế cụ thể dòng vốn FDI ở các khu vực trên thế giới 3 năm vừa qua

Tuy nhiên, các thay đổi nhằm hạn chế FDI cũng đang tăng lên trong vòng vài năm trở lại đây. Quốc hữu hóa trong các ngành năng lượng và truyền thông đang được đẩy mạnh tại Venezuela. Đối với nhiều nước, điều này sẽ tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế.

Một chiều hướng đang được nhắc tới là nhiều quốc gia trên thế giới đang tìm cách hạn chế FDI.

Nguồn số liệu

Ấn Độ và Trung Quốc đặc biệt chú trọng giáo dục đại học, số người tốt nghiệp đại học ở hai nước này chỉ sau Mỹ. Đặc biệt, Ấn Độ còn được coi là cái nôi của nguồn nhân lực có trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin. - Chính sách thu hút nhân tài: Không chỉ phát triển nguồn nhân lực trong nước, Singapo, quốc gia có dân số ít ỏi còn thực hiện nhiều chính sách thu hút nhân tài từ bên ngoài.

Quốc đảo nhỏ bé này được coi là nơi có chính sách thu hút nhân tài bài bản nhất thế giới. Các chính sách đột phá như cho phép người nước ngoài tham gia vào bộ máy nhà nước, nhập cư dễ dàng, đãi ngộ xứng đáng theo trình độ..khiến nước này có được một đội ngũ lao động cao cấp hàng đầu thế giới, trở thành địa điểm hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các ngành nghề đòi hỏi nhiều trí tuệ, chất xám.