MỤC LỤC
Ở cấp vĩ mô (quản lý một nền giáo dục): “Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành Giáo dục” [17, 10]. Ở cấp độ vi mô, quản lý giáo dục trong phạm vi nhà trường có thể xem đồng nghĩa với quản lý nhà trường: “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động có hướng đích của hiệu trưởng đến các hoạt động giáo dục, đến con người (Cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh), đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin v.v…), đến các ảnh hưởng ngoài nhà trường một cách hợp quy luật (quy luật quản lý, quy luật kinh tế, quy luật giáo dục, quy luật tâm lý, quy luật xã hội v.v…) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường [17, 102].
Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục. Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm và công nhận.
Khái niệm đội ngũ giáo viên là khái niệm chung cho những người làm nghề dạy học – giáo dục, ta còn có khái niệm đội ngũ riêng cho từng bậc học, cấp học như: Đội ngũ giáo viên mầm non, đội ngũ giáo viên tiểu học, đội ngũ giáo viên THCS, đội ngũ giáo viên THPT, đội ngũ giáo viên dạy nghề, đội ngũ giáo viên trung học chuyên nghiệp. Phát triển đội ngũ giáo viên là tạo ra một đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu chuyên môn, độ tuổi, giới tính nhằm đáp ứng yêu cầu nhân lực giảng dạy và giáo dục của nhà trường, thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục, đào tạo của nhà trường.
Một nội dung quan trọng khi xem xét số lượng giáo viên là những biến động liên quan chi phối đến việc tính toán số lượng, chẳng hạn như: Việc bố trí, sắp xếp số lượng đội ngũ, bố trí, sắp xếp học sinh/lớp cũng như định mức về giờ dạy, định mức về lao động của giáo viên, chương trình môn học đều có ảnh hưởng, chi phối đến số lượng đội ngũ giáo viên. Từ việc phân tích, xác định nội dung, nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên THPT, những biện pháp cần được nghiên cứu nằm trong nhóm công việc: đào tạo cơ bản ban đầu; đào tạo để đạt chuẩn và nâng chuẩn; bồi dưỡng thường xuyên để cập nhật tri thức trong điều kiện khối lượng tri thức của nhân loại tăng lên nhanh chóng, sự thay đổi của nhà trường, của ngành giáo dục cũng đang diễn ra không ngừng với tốc độ nhanh; các biện pháp về tổ chức nhân sự để hoàn thiện bộ máy nhằm tạo ra môi trường tốt cho hoạt động.
- Các kế hoạch dạy học được xây dựng theo hướng tích hợp dạy học với giỏo dục thể hiện rừ mục tiờu, nội dung, phương phỏp dạy học phự hợp với đặc thù môn học, đặc điểm học sinh và môi trường giáo dục; phối hợp hoạt động học với hoạt động dạy theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. Thêm vào đó chiến lược phát triển kinh tế, xã hội và giáo dục của từng địa phương ảnh hưởng không nhỏ tới công tác quy hoạch đội ngũ giáo viên các cấp học và sự hỗ trợ cho công tác bồi dưỡng, nâng chuẩn cho đội ngũ giáo viên đáp ứng chuẩn nghề nghiệp và xây dựng trường chuẩn quốc gia.
Dựa vào kết quả đánh giá nhu cầu nhà trường có cơ sở lập kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên nhằm đạt các chỉ tiêu đề ra về bồi dưỡng trong năm học, bồi dưỡng ngắn hạn, bồi dưỡng và đào tạo dài hạn (đảm bảo ít nhất có 30% giáo viên đạt tiêu chuẩn dạy giỏi từ cấp cơ sở trở lên; Có phẩm chất đạo đức tốt; Không có giáo viên xếp loại yếu về chuyên môn và đạo đức, có 100% giáo viên đạt chuẩn loại khá trở lên theo quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học). - Các khái niệm, nội dung, các quan điểm, vị trí, vai trò về đội ngũ giáo viên cũng như các quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên THPT và các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác phát triển đội ngũ giáo viên được nêu ra ở Chương I sẽ là cơ sở khoa học để tác giả khảo sát thực trạng và đề xuất các biện pháp nhằm phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT công lập vùng ven thành phố Đà Lạt nói riêng và các trường THPT trong toàn quốc nói chung đáp ứng xây dựng trường chuẩn quốc gia, góp phần thúc đẩy chất lượng giáo dục và đào tạo.
Tà Nung cũng là 1 trong 5 xã trong toàn tỉnh Lâm Đồng không giữ vững kết quả phổ cập giáo dục THCS.
Nguyên nhân thiếu giáo viên môn Tin học là do trước đây môn Tin học chưa đưa vào chương trình giảng dạy chính thức ở các trường phổ thông, đội ngũ giáo viên Tin học cũng chưa được đào tạo đủ cho các trường hoặc số sinh viên học môn Tin học trong các trường sư phạm tốt nghiệp nhưng không về công tác ở các trường phổ thông; Môn Giáo dục quốc phòng – An ninh thiếu là do trước đây chủ yếu lấy giáo viên dạy Thể dục sang dạy GDQP do vậy việc đào tạo chưa đáp ứng đủ cho các trường phổ thông. Tuy thế với việc xếp thứ bậc 4/20 ở tiêu chí 2, tác giả lại nhận thấy có sự mâu thuẫn trong tự đánh giá của giáo viên vì các tiêu chí mang tính tương hỗ cho tiêu chí 4 lại xếp thứ bậc chênh lệnh ở vị trí 14/20 “Lựa chọn và kết hợp tốt các PPDH thực hiện các hoạt động trên lớp”; cùng xếp thứ bậc 14 là tiêu chí 5 “Phát huy được tính năng động sáng tạo, chủ động học tập của học sinh” và xếp thứ 16/20 là tiêu chí 9 “Biết khai thác và sử dụng tốt thiết bị, đồ dùng dạy học nhằm hỗ trợ quá trình học tập của học sinh”.
Việc nâng cao thu nhập cho giáo viên hầu như không thực hiện được vì không có nguồn thu nào khác ngoài ngân sách nhà nước cấp, đội ngũ giáo viên cũng không thể tăng thu nhập từ nguồn dạy thêm vì địa bàn đại đa số là học sinh con em dân tộc đời sống còn nhiều khó khăn; Việc quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ khi giáo viên gặp khó khăn cũng không có nguồn kinh phí nào khác mà chủ yếu dựa vào sự đóng góp hàng tháng của giáo viên để thăm hỏi; Việc tổ chức tham quan học tập, nghỉ mát cho giáo viên cũng không triển khai được vì không có kinh phí, nếu có tổ chức được thì kinh phí chủ yếu là tiền tiết kiệm của giáo viên hàng tháng đóng góp để cuối năm hoặc các kỳ nghỉ anh chị em giáo viên tự tổ chức để tăng thêm sự đoàn kết cũng như giải trí để bớt sự vất vả trong công tác. Một số giáo viên được nhà trường tạo điều kiện tham gia đào tạo trên chuẩn khi hoàn thành xong khóa đào tạo không ở lại trường công tác mà lại có nhu cầu chuyển về những môi trường thuận lợi hơn; một bộ phận giáo viên nữ đang trong độ tuổi sinh sản, giáo viên đang thời kỳ nuôi con nhỏ… đã dẫn đến biến động trong đội ngũ làm cho đội ngũ luôn trong tình trạng thiếu cục bộ; một số giáo viên và cán bộ quản lý có năng lực cũng có nhu cầu xin chuyển về các trường nội thành dẫn đến việc thiếu giáo viên giỏi và cán bộ quản lý giỏi.
- Thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục và chủ trương đa dạng hóa các loại hình học tập đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân, xây dựng một xã hội học tập, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bậc học trung học phổ thông: Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm bảo đảm cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản thống nhất theo một chuẩn, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau THPT để học sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề tiếp sau khi tốt nghiệp.
Các biện pháp được đề xuất phải phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Lạt, phù hợp với nề nếp văn hóa, phong tục tập quán, lối sống của địa phương, tính đặc thù của cộng đồng dân cư và nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo nói chung và cho phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông nói riêng. Trong tiến trình phát triển nhà trường và do yêu cầu đổi mới giáo dục cần điều chỉnh về tổ chức nhà trường, phân cấp quản lý nhà trường, xây dựng những quy chế, quy định tạo cho đội ngũ giáo viên hiện nay có cơ hội phát triển toàn diện về số lượng cũng như chất lượng và nhu cầu của Ngành cũng như của xã hội đòi hỏi.
- Bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên về chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Phổ biến, quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, các quy định của Nhà nước và của Ngành, nhiệm vụ và kế hoạch giáo dục & đào tạo năm học mới, tình hình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương, trong nước và quốc tế. Đặc biệt, đội ngũ giáo viên nhà trường thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua như: phong trào thi đua “Hai tốt” phong trào “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”, phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; các cuộc vận động lớn như: cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”, cuộc vận động “Hai không với 4 nội dung” và đẩy mạnh phong trào xây dựng trường học có đời sống văn hóa tốt … Qua việc thực hiện các cuộc vận động và các phong trào thi đua, đội ngũ giáo viên không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm trước học sinh và nhân dân trong công tác giáo dục và đào tạo.
Kiểm tra, đánh giá việc giảng dạy trên lớp thể hiện: Nề nếp, tổ chức lớp học; việc đảm bảo nội dung bài dạy: truyền thụ kiến thức (đảm bảo kiến thức cơ bản, hệ thống), kỹ năng thực hành, giáo dục tư tưởng, tình cảm; việc vận dụng các phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh; đánh giá chung bài dạy của thầy và kết quả tiếp thu bài của trò. Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các công tác khác như: Công tác chủ nhiệm, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa; ý thức tham gia các hoạt động chuyên môn, hoạt động đoàn thể; công tác bồi dưỡng thường xuyên, tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên; công tác viết sáng kiến kinh nghiệm (giải pháp hữu ích) và việc vận dụng vào giảng dạy.
- Nội dung bồi dưỡng, tự bồi dưỡng: bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn tập trung vào những nội dung giáo viên còn yếu, thiếu hoặc các chuyên đề bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp, sử dụng phương tiện, trang thiết bị dạy học hiện đại; bồi dưỡng kiến thức về tin học, ngoại ngữ … Công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng của đội ngũ giáo viên còn thể hiện qua việc tự nghiên cứu trong quá trình viết sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp hữu ích hàng năm của mỗi giáo viên cũng như việc thiết kế, làm đồ dùng dạy học. - Đội ngũ dự nguồn, các đối tượng tạo nguồn cũng cần được quan tâm ở các trường, Hiệu trưởng nhà trường ngoài việc bố trí họ được dạy nhiều khối lớp cũng nên công khai trước hội đồng về kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ, giao việc cho họ, ví dụ: giao trực một hai ngày trong tuần (với cương vị CBQL), phân công họ lên phương án, tổ chức, điều hành những hoạt động cụ thể trong trường, cử tham dự các hoạt động bồi dưỡng (nêu trên)… về phía nhà trường cũng cần có sự chỉ đạo thống nhất tinh thần này cho các tổ chuyên môn trong trường (và nên tổ chức những cuộc thi dành riêng cho đối tượng này).
- Những kiến thức mới liên quan đến giáo dục môi trường, giáo dục giới tính, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, những vấn đề xử lý tình huống trong cuộc sống… Tất cả những kiến thức đó đều mới đối với mỗi giáo viên nhất là những giáo viên đã công tác lâu năm. - Hiệu trưởng kiểm tra trực tiếp thông qua việc xây dựng kế hoạch cá nhân của từng giáo viên, qua việc dự giờ trên lớp để tận mắt nhìn thấy việc ứng dụng của giáo viên như thế nào.
Giáo viên tiếp thu được qua các lớp tập huấn nếu không được triển khai, áp dụng vào thực tế giảng dạy thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến ý thức của học sinh. - Định kỳ, hiệu trưởng trao đổi với ban giám hiệu và tổ chuyên môn các trường để nắm được thông tin về việc học tập, trao đổi kinh nghiệm của giáo viên nhà trường với giáo viên các trường nội thành.
Vì vậy, CBQL phải xác định để có một CBQL trường học ngoài việc thường xuyên rèn luyện bản thân, phải luôn biết quan tâm toàn diện đến tập thể, tạo những điều kiện thuận lợi cho đội ngũ được học tập, nâng cao trình độ, được giảng dạy, tổ chức các hoạt động giáo dục trong những điều kiện tốt nhất, luôn được làm việc trong sự tin tưởng của cấp trên, trong bầu không khí tâm lý phấn khởi, tươi vui; phải biết tạo môi trường học tập tích cực cho các em học sinh, xây dựng và hình thành cho các em nhân cách sống trong môi trường thân thiện, tích cực thông qua các hoạt động giáo dục toàn diện trong nhà trường. Cùng với các chế độ chính sách và sự đầu tư về mọi mặt của Nhà nước, của Ngành còn phải biết chủ động, sáng tạo xây dựng thêm cơ chế, chính sách riêng của đơn vị, đầu tư thêm về CSVC, thiết bị hiện đại cho dạy học và quản lý, trang phục, thiết bị phục vụ cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của giáo viên và học sinh, xây dựng công trình thiết yếu, cảnh quan môi trường..; tổ chức các hình thức hợp lý để tăng thu nhập, hỗ trợ kinh phí việc học tập, tự bồi dưỡng cho đội ngũ, tổ chức tham quan học tập các mô hình giáo dục, quản lý tốt, đẩy mạnh dân chủ cơ sở, phát huy trí tuệ tập thể, tổ chức đồng bộ hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trong trường, tạo sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các bộ phận, tranh thủ sự chỉ đạo, quan tâm hỗ trợ của các cấp, các ngành, phụ huynh và nhân dân.
Trước hết phải khẳng định trong các năm qua, giáo dục thành phố Đà Lạt đã được đầu tư tương đối toàn diện trong việc xây dựng trường lớp, cảnh quan, môi trường, trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại…đáp ứng khá tốt cho các hoạt động quản lý và giáo dục. Cuộc vận động xây dựng “Trường học có đời sống văn hóa tốt”, Trường học “xanh - sạch - đẹp” cùng với các các phong trào thi đua, các cuộc vận động của Ngành, đặc biệt là phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đang được triển khai rất tốt từ các trường chắc chắn sẽ mang đến một môi trường bên trong thật sự thuận lợi cho các hoạt động giáo dục và quản lý.
- Biện pháp đạt từ 90% trở lên mang tính khả thi là biện pháp 1 “Giáo dục chính trị tư tưởng nâng cao nhận thức vai trò, trách nhiệm của người giáo viên trung học phổ thông”, biện pháp 2 “Đánh giá giáo viên định kỳ, hàng năm dựa trên chuẩn nghề nghiệp”, và biện pháp 6 “Xây dựng môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, đoàn kết tạo động lực làm việc và sự gắn bó của giáo viên với nhà trường”. Nguyên nhân của việc không khả thi chủ yếu là do đội ngũ giáo viên đã có thâm niên công tác lâu năm ngại giao lưu, tiếp cận cái mới như đã trình bày ở trên; nguyên nhân do nguồn kinh phí của nhà trường hạn chế nên không thể hỗ trợ cho công tác này và một nguyên nhân rất cơ bản là do đội ngũ giáo viên ở các bộ môn còn mỏng nếu tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên trẻ được giao lưu, học tập thì sẽ rất khó khăn cho công tác giảng dạy của nhà trường.
Nguyễn Minh Đường (chủ biên 2006), Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.