Nghiên cứu mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 - nay

MỤC LỤC

III - Sử dụng vốn đầu tư

Khái niệm

Sử dụng vốn đầu tư là quá trình đưa nguồn vốn đã tích luỹ, huy động được vào đầu tư.

Kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển 1. Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển

- Chi phí quản lý chung của dự án: chi phí tổ chức thực hiện công tác đền bù giải phóng mặt bằng thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư, chi phí thẩm định hoặc thẩm tra thiết kế, tổng dự toán, dự toán xây dựng công trình, chi phí lập hồ sơ dự thầu, hồ sơ mời thầu, phân tích đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đấu thầu; chi phí giám sát thi công xây dựng, giám sát khảo sát xây dựng và lắp đặt thiết bị; chi phí kiểm định và chứng nhận sự phù hợp về chất lượng công trình xây dựng; chi phí nghiệm thu, quyết toán, quy đổi vốn đầu tư và các chi phí quản lý khác. Đối với chi phí quản lý dự án và chi phí khác của dự án sử dụng nguồn vốn ODA thì ngoài các chi phí trên còn các chi phí khác như: chi phí lập văn kiện dự án, chi phí thẩm định, bổ sung, hoàn thiện văn kiện dự án, chi phí kiểm toán quốc tế được xác định theo hướng dẫn của Nhà tài trợ quốc tế hoặc lập dự toán trình người có thẩm quyền thẩm định phê duyệt.

IV - Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư

Tác động của sử dụng đối với tạo lập và huy động vốn đầu tư

Tạo lập và thu hút vốn rất cần thiết cho hoạt động đầu tư, nếu tạo lập và thu hút được ít vốn sẽ làm cho hoạt động đầu tư khó thực hiện. Tuy nhiên tạo lập và huy động được nguồn vốn quá nhiều vượt quá nhu cầu hiện tại thì vừa làm giảm đi tiêu dùng trong nền kinh tế, gây tác động xấu cho tăng trưởng kinh tế, vừa gây khó khăn trong việc sử dụng, hấp thụ, giải ngân nguồn vốn. Khi đó việc kiểm soát vốn đầu tư và hoạt động vốn đầu tư rất khó khăn, hoạt động đầu tư tràn lan thiếu hiệu quả dễ gây ra thất thoát lãng phí.

I - Thực trạng tạo lập vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay

Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế: Vốn đầu tư trong nước

15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP bằng 33% số tiết kiệm được. Trong giai đoạn tiếp theo nguồn vốn này sẽ tiếp tục gia tăng cả về quy mô và tỷ trọng.

II - Thực trạng thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay

Những thành tựu đạt được trong thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay

Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn FDI vào nước ta đã tăng đáng khích lệ với sự xuất hiện của nhiều dự án có quy mô lớn đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp nặng (sản xuất sản phẩm công nghệ cao, đồ điện tử, thép…) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, tư vấn…). Nhìn chung, sự hỗ trợ của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong những năm qua đã tăng trưởng liên tục và bổ sung nguồn vốn không nhỏ cho nền kinh tế nước ta, tăng cường đầu tư vào các công trình kinh tế quốc dân, các kết cấu hạ tầng cơ sở xã hội, cải cách và nâng cao năng lực quản lý trong lĩnh vực này, các dự án xoá đói giảm nghèo. Lượng kiều hối gia tăng là một trong những thnàh quả của chính sáchđại đoàn kết dân tộc, xoa bỏ ngăn cách và định kiến, hướng sự nỗ lực của cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước vì một nước Việt Nam cường thịnh.

Bảng 2: Huy động vốn ODA trong giai đoạn 2001 – 2007 ( đơn vị: Triệu USD)
Bảng 2: Huy động vốn ODA trong giai đoạn 2001 – 2007 ( đơn vị: Triệu USD)

III - Thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay

Nguồn vốn nhà nước Ngân sách nhà nước

- Nguồn nhân lực của Việt Nam còn có nhiều hạn chế: Thiếu đội ngũ quản lý doanh nghiệp chuyên nghiệp, chất lượng lao động không cao, thể hiện ở chỗ phần lớn số này thiếu kĩ năng chuyên môn như về luật pháp, thị trường trong khi một số khác lại bị hạn chế bởi ngôn ngữ,, sự phân bổ nguồn nhân lực có trình độ không hợp lý…. Trên thực tế, việc cắt giảm là đúng nhưng về lâu dài chúng ta phải tính đến những phương án hiệu quả hơn, hoặc phải có cơ chế cụ thể trong phân cấp đầu tư và hình thành vốn cho từng vùng, tránh tình trạng đua tranh giữa các địa phương, dẫn đến giảm tính hiệu quả của đồng vốn. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lí và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991 - 2000 nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của nhà nước.

Nguồn vốn của dân cư và tư nhân

Theo Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, thông thường nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. Với khoảng vài trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã) đa dạng và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Quy mô của những nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp); Tập quán tiêu dùng của dân cư; Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài 1. Nguồn ODA

Tổng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như các dự án ODA hỗ trợ cải cách giáo dục tiểu học, trung học và đại học, tự án tạo nghề. Các doanh nghiệp FDI đã góp phần tạo ra một khối lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp, tham gia phát triển nguồn nhân lực, đem lại phương thức quản lý, kinh doanh mới, tạo động lực cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hoàn thiện năng lực sản xuất của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh nhưng thấp hơn nhiều nước trong khu vực, chính sách khuyến khích xuất khẩu chưa hấp dẫn, hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng gia công nên giá trị gia tăng thấp, thiết bị máy móc chuyển giao vào Việt Nam để thực hiện các dự án còn lạc hậu, giá cả cao, nhiều doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, lao động trong khu vực FDI phổ biến là lao động thủ công.

IV - Thực trạng mối quan hệ tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay

Lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan hệ tiền - hàng mất cân đối thường có bề nổi, dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do đầu tư không có hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc đầu rất khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải kèm theo cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí còn có thể rơi vào cuộc khủng hoảng. Mặc dù tỷ lệ huy động vốn từ các nguồn là tốt nhưng ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều vấn đề trong việc sử dụng vốn nếu không muốn nói là lãng phí đó là đối với những dự án có vốn đầu tư của nhà nước. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA cũn chậm, rừ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và khụng cú sẵn vốn đối ứng trong các dự án.

I - Tạo lập vốn đầu tư

  • Thu hút vốn đầu tư

    Các trung gian tài chính gồm có các ngân hàng thương mại, ngân hàng tiết kiệm, các quỹ tiết kiệm cộng đồng, ngân hàng phát triển, thị trường chứng khoán, các quỹ an sinh xã hội, các công cụ thuộc về nợ của Chính phủ như công trái, trái phiếu… Các trung gian tài chính này có thể hướng dẫn cung, tạo thuận lợi cho giới chủ doanh nghiệp. - Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động là việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. - Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án đầu tư nước ngoài, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.

    IV - Các giải pháp chung

      Cụ thể là: Củng cố, nâng cao năng lực kinh doanh và sức cạnh tranh của các trung gian tài chính với các hình thức đa dạng, thích hợp; Khuyến khích các trung gian tài chính phát triển các loại hình dịch vụ mới phù hợp; Hoàn thiện và phát triển đồng bộ thị trường tài chính, đặc biệt ưu tiên phát triển thị trường vốn trung và dài hạn, đảm bảo sự vận hành an toàn, lành mạnh, hiệu quả; Tạo lập khuôn khổ pháp luật giám sát hoạt động tài chính trên thị trường, thực hiện minh bạch vì lợi ích người đầu tư và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; Từng bước mở cửa thị trương tài chính Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách cơ bản là: Xây dựng hạn mức nợ nước ngoài của quốc gia phù hợp với các tiêu chuẩn an toàn được quốc tế thừa nhận và gắn với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô lành mạnh; Ngân sách nhà nước chỉ vay cho đầu tư phát triển, không vay cho tiêu dùng; Nền kinh tế phải tăng khả năng xuất khẩu và nguồn thu ngoại tệ để trả nợ nước ngoài, tránh tình trạng nợ quá hạn; Thiết lập cơ chế giám sát tài chính, tiền tệ nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, kiểm soát chặt chẽ các luồng vốn nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn; Xử lý nợ, lành mạnh hóa tài chính của các doanh nghiệp nhà nước; Có quy chế giám sát nợ trong giám sát tài chính doanh nghiệp nhà nước. Do đó, để đạt được mục tiêu của Đảng đã đề ra nhằm đưa đất nước đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá, tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư và cần có các biện pháp nhằm huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó.