MỤC LỤC
Để xuất khẩu được hàng hoá ra khỏi lãnh thổ của Việt Nam, nội dung của hoạt động xuất khẩu được tổ chức gồm nhiều nghiệp vụ: Từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, bạn hàng giao dịch , thông qua các bước giao dịch và đàm phán đi đến kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá được chuyển đến nước bạn, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua và người mua tiến hành thủ tục thanh toỏn. Ngành điều có thể nói là một ngành non trẻ, nhưng có tốc độ phát triển nhanh từ xuất thô 100%, nay đã chuyển sang xuất điều nhân chế biến đã tăng gấp 80 lần, tưng tự vậy ngành cà phê tăng gấp 4 lần, ngành cao su tăng gấp 3 lần … Nhưng nhìn tổng thể thì hàng nông sản của Viêt Nam phần lớn vẫn ở dạng thô và sơ chế là chính, tỷ trọng chế biến sâu mới đạt 25%, Mặt khác nguyên liệu thu gom là chính, sản xuất phân tán trên nhiều vùng khác nhau nên chất lượng nguyên liệu thấp và không đồng đều.
Các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới, trong bối cảnh thị trường được phân chia và sự phân công lao động quốc tế được xác lập tương đối ổn định .Các doanh nghệp Việt Nam còn non trẻ đã phải đương đầu trong sự cạnh tranh gay gắt của các công ty, tập đoàn đa quốc gia hay doanh nghiệp lớn nhiều năm kinh nghiệm trên thương trường. Hơn nữa Việt nam là một nước có lịch sử lâu đời về sản xuất nông nghiệp, đã xuất khẩu được khối lượng lớn về nông sản như : gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su, điều… Do vậy trong những năm tới Đảng và nhà nước ta vẫn kiên trì con đường phát triển kinh tế xã hội bằng cách phát huy các lợi htế về nông nghiệp, đồng thời phát triển công nghiệp và gia tăng dịch vụ, nhưng phát triển nông nghiệp vẫn là mục tiêu hàng đầu.
Nhưng khụng cú sự hỡnh thành rừ ràng quan hệ ngành hàng (giữa sản xuất -chế biến - lưu thông tiêu thụ), vẫn trong tình trạng nhiều nhưng thiếu, đông nhưng không mạnh, thiếu sự quản lý hướng dẫn, điều hành phân công và sự kết hợp trong hoạt động kinh doanh nên đã xẩy ra tình trạng lộn xộn mua bán theo kiểu chụp dựt, mạnh ai nấy làm, tranh mua tranh bán, bị ép gía. Nhìn một cách tổng thể năng lực chế biến và công nghệ chế biến gạo của Việt Nam thực sự đã có nhiều thay đổi, với công nghệ hiện đại và thiết bị đồng bộ của Nhật và một số nước tiên tiến khác, ngoài ra còn có hệ máy 15- 30 tấn/ca có trang bị thêm thiết bị tách tấm, phân loại, đánh bóng đã đáp ứng được yêu cầu về chất lượng chế biến gạo cho các thị trường cấp cao.
Bên cạnh đó chất lượng của một số dịch vụ có liên quan ( kiểm phẩm, xông trùng, bảo quản kho ngoại quan .. ) độ tin cậy không cao, thiếu tính ổn định trong việc cung ứng chân hàng, năng lực vận tải hàng hải hạn chế. Những hạn chế nói trên đã làm mất cơ hội về giá và đương nhiên người nông dân trồng lúa phải chịu dưới hình thức giá FOB thấp hơn, điều này gây ảnh hưởng giảm giá gạo xuất khẩu.
Cây Cao su là cây công nghiệp dài ngày được trồng từ lâu ở nước ta, cách đây gần một trăm năm ,vào những năm 1987 lần đầu tiên ở Thủ Giầu Một và Suối Dầu đến nay cây cao su đã phát triển khá ổn định và diện tích ngày một tăng, hình thành vùng sản xuất khá tập trung ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên và còn nhiều diện tích có điều kiện sinh thái thích nghi để trồng và mở rộng cây cao su. Diện tích cây cao su không ngừng được mở rộng, trong 20 năm (1976- 1996) về diện tích tăng lên 4,6 lần, sản lượng tăng lên 4,8 lần, năng suất tăng lên 1,5 lần .Trong đó riêng diện tích của hai vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chiếm tới 76% so với diện tích của cả nước .Nhưng so với các nước trên thế giới và trong khu vực ,thì diện tích và sản lượng của Việt Nam chiếm rất nhỏ bé.
Chè của ta tiêu thụ khá rải rác từ Irắc, Li bi, Angêri đến Anh, Ba lan, Nga, Nhật Bản, Hồng kông, Đài Loan, Mỹ… Trong đó cần nỗ lực tăng tỷ trọng chè chất lượng cao cho các thị trường khó tính như: Nhật Bản, Đài Loan, Trung Đông, đi đôi với việc tăng cường hợp tác đóng gói tại Nga để đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường này. Indonesia, Philippin và Băngladet là những nước đã góp phần đưa mậu dịch gạo thế giới đạt mức cao kỷ lục trong hai năm qua bằng lượng gạo nhập khẩu khổng lồ của mình, sẽ không cần nhập nhiều trong năm nay bởi vụ mùa lúa gạo trong nước khả quan hơn.
Về chiến lược thị trường, trước mắt, chúng ta cần tiếp tục phát triển các thị trường xuất khẩu đã được khai thông, trong đó đặc biệt chú trọng tới 20 thị trường chính gồm: Siagapore, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Đức, Hông Kông, Hoa Kỳ, Pháp, austraulia, Indonesia, Philippin, Anh, Nga, Malaixia, Hà Lan, Thuỵ Sỹ, Bỉ, và Italia. Coi trọng thị trường Trung Quốc, cho dù Trung Quốc có nhiều mặt hàng tương đồng và cạnh tranh với ta .Đói với Trung Quốc, Việt Nam cần chủ động tích cực xâm nhập các thị trường các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam về dầu thô ,thuỷ sản, cao su và một số loại nông sản khác.
Sự phát triển nhanh chóng của xuất khẩu Việt Nam trong những năm qua đựơc xem là những thành tưụ của nền kinh tế mở ,tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm đã được tăng lên và tương đối cân bằng gjữa nhập siêu và xuất siêu ,tuy nhiên có thẻ thấy rằng sản lượng các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có xu hướng tăng lên ổn định qua các năm. Song giá trị kim ngạch xuất khẩu thì dường như không ổn định do các yếu tố giá cả giảm sút đặc biệt với hai mặt hàng gạo và cà phê như năm 1996 so với năm 2000 mặc dù có sự tăng lên về số lượng xuất khẩu nhưng giá trị xuất khẩu lại bị giảm đi với những năm trước đó.
Nhờ thế đã nâng cao được năng suất, chất lượng và tỷ suất hàng hoá.Trong 11 năm qua diện tích, năng suất và sản lượng tăng liên tục, bình quân hàng năm về diện tích tăng 2,1%/năm, sản lượng 4,59%/năm. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng, nhất là những tiến bộ về giống lúacó năng suất và chất lượng cao và những giống lúa lai đặc sản Trung Quốc …Từ đó đã có những thay đổi sâu xắc trong chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, nâng cao hệ số sử dụng đất, hạn chế được nhiều thiệt hại do thời tiết gây ra.
Xét về mặt chất lượng và uy tín, gạo Thái Lan phù hợp với thị trường thu nhập cao, như: Nhật, EU, Trung Đông…Trong cùng thời gian Thái Lan xuất khẩu gạo có phẩm cấp cao thường chiếm tới 60 – 62%, trong khi đó Việt Nam mới đạt 35 – 40% so với tổng lượng gạo xuất khẩu. Từ số liệu trên ta thấy khối lượng nhập khẩu của Indonesia giảm trong năm 2000, 2001 là do nước này đã có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước như: cấm tư nhân nhập khẩu gạo có chất lượng thấp, nâng mức thuế nhập khẩu gạo lên 35%, đây cũng là nguyên nhân làm cho tông lượng gạo nhập trên thế giới giảm vì nhập khẩu gạo đối với nước khác chỉ giảm nhẹ .Trật tự xuất khẩu gạo trên thế giới không thay đổi dẫn đầu vẫn là Thái lan, tiếp đến là Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan.
Trong số khánh hàng mua cà phê Việt Nam có cả những công ty kinh doanh cà phê hàng đầu thế giới như New Mern(Đức), EDCFMen (Anh), Volcafe (Thuỵ Sĩ), Pardivat (Pháp)…Tháng 10/1994, những container cà phê đầu tiên đã có mặt ở Mỹ – một trong những thị trường có nhu cầu tiêu thụ lớn, thông qua công ty Rossy Group của Mỹ làm đại lý. Tuy nhiên,Bắc Mỹ và Tây âu là hai khu vực thị trường khó tính, để đáp ứng được nhu cầu cà phê và có một vị thế vững chắc trên thị trường này cũng như thị trường thế giới,Việt Nam cần phải đầu tư mạnh hơn nữa để xây dựng các nhà máy chế biến cà phê hiện đại, tăng cường cái tiến mẫu mã, tăng cường hợp tác chế biến nhằm bảo đảm cả khối lượng kim ngạch và hiệu quả xuất khẩu.
Ngoài những thị trường truyền thống như Nga, Đông Âu, Singapore những năm gần đây cà phê Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị trường các nước công nghiệp phát triển ở Tây Âu như Thuỵ Sĩ, Pháp, Anh, Hà Lan, Đức. Điều nhanh chóng trở thành một trong những nông sản xuất khẩu chủ lực có kim ngạch xuất khẩu đứng vào hàng thứ tư trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam.
Để làm được việc đó Việt Nam cần phát huy các lợi thế như điều kiện sinh thái ,đất đai , năng suất và chi phí lao động thấp với lợi thế có tính đặc thù … Để tạo lợi thế mới về quy mô ,chất lượng , trước hết cần có sự đầu tư đồng bộ cho vùng sản xuất tập trung ,thâm canh nâng cao năng suất ,cải thiẹn công nghệ chế biến ,nâng cao tỷ lệ cao cấp trong cơ cấu suất khẩu (từ 40% lên 60%) để dành thị phần. Tuy nhiên ,xuất khẩu cao su Việt Nam chủ yếu là cao su tự nhiên .Cao su thành phảm chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ ,do đó giá trị xuất khẩu không cao ,không những thế khi trong nước thừa cao su nguyên liệu ,thì hàng năm nhà nước ta vẫn phải bỏ ra một lượng lớn ngoại tệ để nhập về gần 9 triệu chiếc lốp xe các loại từ Hàn Quốc, Đài Loan, ấn Độ, Nhật, Mỹ ….
Chỉ tính riêng đối với việc thực hiện CEPT/AFTA, với dự kiến nhập khẩu tăng 20% ở năm 2006, ngân sách có thể lại bị giảm mất nguồn thu 2,6 triệu USD, tạo nên sức ép đối với ngành chế tạo sản phẩm cao su trong nước với sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại. Đương nhiên là sức ép từ nhiều phía của thị trường, song cần phát huy tốt các lợi thế như đã phân tích trên: về điều kiện sinh thái, đất đai, năng suất và chi phí nhân công rẻ, để tạo lợi thế mới về qui mô chất lượng mà trước hết cần phải có sự đầu tư đồng bộ cho vùng nguyên liệu tập trung, thâm canh, nâng cao hiệu quả xuất khẩu cao su.
Với ASEAN cần nghiên cứu biện pháp giảm dần nhập siêu trên cơ sở tăng nhanh xuất khẩu, trước hết là xuất khẩu các mặt hàng: dầu thô, gạo, nông sản, rau quả, thực phẩm… Mặt khác Việt Nam cần thực hiện đối sách khôn ngoan là trong thời gian tới Việt Nam cần xúc tiến nhanh việc mở rộng thị trường sang các khu vực khác ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng để “bù đắp” cho khu vực thị trường này. Không những thế quan hệ giữa các công ty Nhật Bản không có nghĩa là trong phạm vị các công ty đó mà cần có sự phối hợp giữa các công ty trong phạm vi một bộ, một địa phương, không những chỉ xuất khẩu sang Nhật Bản những mặt hàng truyền thống mà còn xuất khẩu sang Nhật Bản các mặt hàng khác như nông sản, lâm sản, thực phẩm…Và điều quan trọng nhất là.
Riêng công ty VINAFOOD Hà Nội xuất khẩu trên 500 tấn gạo đặc sản sang thị trường Hông Kông, Singapore vào năm 1987, trong khi đó khả năng xuất khẩu thực tế có thể đạt 2000 – 3000 tấn…Vì lượng xuất khẩu quá nhỏ, lại không thường xuyên cho nên nhìn chung xuất khẩu gạo đặc sản vm chưa đem lại hiệu quả lớn. Mặt khác Thai Lan có uy tín và được nhiều khách hàng ưa chuộng, phù hợp với thị trường có sức mua cao như: Nhật Bản, EU, Tây Âu… Trong khi đó Việt Nam trên thực tế mới thâm nhập vào thị trường và chất lượng phẩm cấp gạo Việt Nam thấp hơn Thai Lan, như : Độ trắng không đồng đều, lẫn thóc và nhiều tạp chất, đặc biệt lúa hè thu thường có độ ẩm cao, bạc bụng hạt vàng, tỷ lệ độ gãy cao, mẫu mã bao bì đóng gói không đẹp thiếu những loại chất lượng cao phù hợp với thị hiếu tiêu dùng ở.
Cuộc cạnh tranh này có tác dụng ngược trở lại buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tổ chức, xem xét lại khẩu sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, các doanh nghiệp cũng cần nhìn lại chất lượng sản phẩm của mình để thích nghi với những biến động của thị trường thế giới. Để hiểu rừ hơn về mặt hàng gạo xuất khẩu, chỳng ta cần xem xột qua các nội dung như sản lượng gạo xuất khẩu, chất lượng, giá cả, kim ngạch, các thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Thông qua xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá lẫn chất lượng. Gạo Việt Nam hiện nay đã có chỗ đứng, được chấp nhận trên thị trường thế giới; gạo phẩm cấp cao chiếm 40% tổng số gạo xuất khẩu.
Chất lượng gạo xuất khẩu có liên quan đến một loạt yếu tố từ khẩu sản xuất như đất đai, nước tưới tiêu, phân bón đến giống lúa và khâu chế biến. Giá cả và kim ngạch là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả kinh tế của toàn bộ quá trình từ khâu sản suất đến khâu xuất khẩu gạo.
Có giai đoạn do không tính toán và bám sát tình hình, nên các doanh nghiệp tập trung kí hợp đồng và giao hàng với khối lượng lớn trong cùng một thời gian làm vượt qúa khả năng nguồn hàng, xay sát, chế biến, vận chuyển, bao bì, bốc dỡ… làm mất cân đối trên một số mặt, ảnh hưởng đến giá cả thị trường và giảm hiệu quả xuất khẩu. Tất nhiên có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại này, nhưng phải kể đến những nguyên nhân cơ bản nhất, đó là trình độ kinh tế của nước ta còn thấp, cơ cấu kinh tế nói chung còn lạc hậu; nước ta nằm trong cơ chế tập trung, bao cấp lại bị bao vây cô lập khá lâu, thực tế mới chuyển sang nền kinh tế thị trường hơn 10 năm nay nên không tránh khỏi những bỡ ngỡ.
Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu, chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phảm có hàm lượng công nghệ chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; Về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, đảm bảo cán cân thương mại ở mức hợp lý, mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 được xây dựng nhằm cụ thể hoá những định hướng nêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng đang được thảo luận, đề ra những định hướng và biện pháp cụ thể để hoạt động xuất nhập khẩu phục vụ đắc lực hơn nữa sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Nguồn đầu tư nên được xác định là: Nhà nước tập trung cho những khâu đòi hỏi vốn lớn, có tác dụng nhiều cho doanh nghiệp như nghiên cứu khoa học, xây dựng hạ tầng, kho bãi, bến cảng, thành lập các trung tâm thương mại và các kho ngoại quan ở nước ngoài… Trong các khâu còn lại, Nhà nước chỉ ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp chủ động đầu tư sản xuất, kinh doanh, hạn chế tới mức thấp nhất, nhanh chóng tiến tới xoá bỏ hoàn toàn cơ chế “ xin – cho”, bao cấp trực tiếp hoặc gián tiếp 2. * Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm dựa vào khung pháp lý và các chính sách khuyến khích của Nhà nước để tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông tin; trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm; đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các thay đổi trong sản xuất kinh doanh; tự mình lo tìm bạn hàng, thị trường, tự mình lo tổ chức sản xuất và nhập khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá; đặc biệt chú trọng giữ “ chữ tín” trong việc kinh doanh để duy trì chỗ đứng trên thị trường, phối hợp với nhau trongviệc đi tìm và quan hệ bạn hàng.
Để cho nông sản hàng hoá ngày càng đáp ứng được yêu cầu về chất lượng trong quá trình chế biến, Nhà nước cần thiết phải hỗ trợ công nghiệp chế biến nông sản cho các cơ sở sơ chế, các doanh nghiệp chế biến thông qua chương trình giới thiệu rộng rãi các tài liệu và trình diễn các công nghệ chế biến các nông sản mới, hỗ trợ các doanh nghiệp trong chuyển giao công nghệ, hỗ trợ nghiên cưú và cải tiến công nghệ đang được áp dụng và có chính sách nâng cao công nghệ chế biến thông qua thuế,tín dụng, khấu hao. Trong khuôn khổ đề tài, dựa trên các nguồn thông tin, số liệu khác nhau đề tài nghiên cứu: "Giải pháp và các kiến nghị chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt nam" đã tiến hành phân tích, luận giải các vấn đề thuộc nhà nội dung nghiên cứu, nhằm đưa ra các kết luận, nhận định cần thiết góp phần vào thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.