MỤC LỤC
Khoản phí này liên quan đến rất nhiều các yếu tố như vị trí, phạm vi, qui mô kinh doanh của bên nhận quyền, sự thành công của thương hiệu nhượng quyền, mục đích của các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại. Vì trong quá trình kinh doanh, bên nhận quyền có thể sẽ sáng tạo thêm vào các biểu tượng kinh doanh hoặc thêm vào các kí tự, màu sắc vào nhãn hiệu hàng hóa, thay đối hoặc bổ sung công thức pha chế, phục vụ khách hàng… tóm lại là những các thức sáng tạo của bên nhận quyền mà họ thấy có thể làm công việc kinh doanh của họ tốt hơn, hoặc để đỡ nhàm chán.
Như vậy, đặc trưng cơ bản nhất của NQTM là việc bên nhận quyền thương mại kinh doanh theo phương thức có sẵn của bên trao quyền và chịu sự kiểm soát của bên trao quyền về cách thức tiến hành kinh doanh. Hợp đồng NQTM sản xuất bao hàm việc chuyển giao công nghệ, nhưng không thuần tuý là chuyển giao công nghệ, bởi vì, hợp đồng chuyển giao công nghệ, bản thân nó, không quy định về sự hợp tác lâu dài giữa bên cung cấp và bên thụ hưởng bí quyết.
Hơn nữa, “licence” sáng chế không phải là yếu tố không thể thiếu của một hợp đồng NQTM sản xuất, bởi vì, yếu tố được chuyển giao trong hợp đồng NQTM sản xuất thường là bí quyết. Hợp đồng NQTM sản xuất được phân biệt với dạng hợp đồng thầu khoán ở đặc điểm theo đó, hợp đồng thầu khoán không nhất thiết kèm theo việc chuyển giao công nghệ.
Theo hợp đồng NQTM phân phối, bên nhận quyền chỉ được bán các sản phẩm gắn nhãn hiệu của bên nhượng quyền, tại cửa hiệu gắn tên thương mại hoặc biểu tượng của bên nhượng quyền. Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng vì tùy vào mỗi loại NQTM mà bên nhận và bên nhượng sẽ có hợp đồng nhượng quyền đặc trưng phù hợp với mỗi loại nhượng quyền.
“Hợp đồng phát triển quyền thương mại” là hợp đồng nhượng quyền thương mại theo đó Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền quyền được phép thành lập nhiều hơn một cơ sở của mình để kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại trong phạm vi một khu vực địa lý nhất định [2, khoản 8 điều 3]. Theo đó, bên nhận quyền, có thể thành lập nhiều cửa hàng thuộc sở hữu của mình, do mình quản lý trong một phạm vi khu vực địa lý nhất định nếu thấy cần thiết.
Về đối tượng chuyển giao: nếu hoạt động li-xăng chỉ dừng lại ở việc chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp, thì trong nhượng quyền thương mại, quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp chỉ là một phần của hoạt động chuyển giao, vì bên cạnh đó, bên nhượng quyền còn chuyển giao cách thức, bí quyết tiến hành kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, thiết kế, trang trí địa điểm kinh doanh…nói một cách tổng quát là chuyển giao cả phần nội dung và hình thức của quy trỡnh kinh doanh. Thứ hai, về mục đích của quá trình chuyển giao: trong hoạt động li-xăng, mục đích mà bên nhận li-xăng hướng tới là nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích nhằm xác định hình thức, nội dung sản phẩm, còn trong nhượng quyền thương mại, mục tiêu mà bên nhượng quyền và bên nhận quyền hướng tới là phát triển một hệ thống kinh doanh, trong đó nhãn hiệu hàng hóa, các đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp chỉ là một bộ phận.
Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa không bắt buộc phải chuyển giao các đối tượng sở hữu công nghiệp, quy trình kinh doanh, huấn luyện… cũng như không tồn tại nghĩa vụ kiểm soát/hỗ trợ kinh doanh toàn diện, chặt chẽ giữa các bên như nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, hai hình thức kinh doanh này có những điểm khác biệt căn bản: sự kết nối chặt chẽ giữa các chủ thể kinh doanh, vai trò hỗ trợ và kiểm soát của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền, khả năng giảm thiểu rủi ro đến mức tốt nhất trong giai đoạn khởi đầu và giai đoạn phát triển của quá trình kinh doanh đã tạo nên những ưu thế hoàn toàn khác biệt của nhượng quyền thương mại so với hợp tác kinh doanh.
Giáo sư Andrew Terry (Australia) - một chuyên gia pháp lý hàng đầu trong lĩnh vực nhượng quyền - khẳng định “không nghi ngờ gì nữa, Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại chính là chìa khóa để cải cách hoạt động nhượng quyền”. Tại Hoa Kỳ, năm 1970, dẫn đầu là bang California, 15 bang của Hoa Kỳ đã ban hành các quy định pháp luật về đăng ký và pháp luật về bản giới thiệu NQTM. Đây là văn bản pháp luật về NQTM đầu tiên của Hoa Kỳ ở cấp độ liên bang quy định về bản giới thiệu NQTM. Xong các bang của Hoa Kỳ lại không tuân theo mẫu và hướng dẫn của UBTM liên bang, mà họ lại tự tìm một mẫu hoàn thiện và toàn diện. Năm 1970, Hiệp hội các quản trị viên chứng khoán bắc Mỹ đã ban hành một mẫu bản giới thiệu NQTM mới chặt chẽ hơn, hoàn thiện hơn có tên là “bản thông báo các thông tin chuẩn tắc trong NQTM” và “hướng dẫn bản thông báo các thông tin chuẩn tắc trong NQTM”. Để giúp đơn giản hóa việc áp dụng 2 bản giới thiệu NQTM trên, năm 1979, UBTM liên bang Hoa Kỳ đã cho phép bên nhượng quyền sử dụng mẫu của Hiệp hội các quản trị viên chứng khoán bắc Mỹ. Để phù hợp và thích ứng với sự thay đổi của thị trường và công nghệ, ngày 22/1/2007, UBTM liên bang Hoa Kỳ đã bỏ phiếu để phê duyệt “các nguyên tắc NQTM” sửa đổi. Luật mới có hiệu lực từ ngày 1/7/1007, và các bên nhượng quyền không nhất thiết phải áp dụng luật mới này. Luật sửa đổi làm cho luật liên bang gần với quy định của luật bang hơn. Mục đích đầu tiên của các nhà làm luật khi sửa luật về NQTM là làm hài hòa những quy định của luật liên bang với những quy định của luật riêng các bang. Sau đó, các nhà làm luật muốn thay đổi các quy định của luật cũ bằng các quy định mới sao cho phù hợp với thị trường nhượng quyền, và những công nghệ mới ngày nay, giảm chi phí thực hiện tới mức cao nhất có thể. Mặc dù luật được sửa đổi gần với hướng dẫn của Hiệp hội các quản trị viên chứng khoán Bắc Mỹ, nhưng trong một vài trường hợp cá biệt, nó yêu cầu bao quát hơn và rộng rãi hơn – gần như là với hy vọng đáp ứng một vài mong đợi trong quan hệ giữa bên nhận quyền và bên nhượng quyền ). Theo quy định của ‘‘Các nguyên tắc NQTM” thì bên nhượng quyền khi có bất cứ thay đổi, sửa đổi một cách đơn phương và các điều khoản cốt yếu và những điều kiện của hợp đồng nhượng quyền hoặc bất cứ phần đính kèm với bản giới thiệu thì phải chuẩn bị cho bên dự kiến nhận quyền bản phô tô những thỏa thuận lại trong thời hạn ít nhất 7 ngày trước khi bên dự kiến nhận quyền ký vào bản sửa đổi hợp đồng.
Bản giới thiệu là nhằm mục đích giành cho bên dự kiến nhận quyền – những người ít có kinh nghiệm và hiểu biết về lĩnh vực kinh doanh hay những lĩnh vực chuyên ngành của bên nhượng quyền. Pháp luật Hoa Kỳ quy định: “ngôn ngữ của bản giới thiệu phải là tiếng Anh đơn giản” “Thông tin trong Bản giới thiệu nhượng quyền phải rừ ràng, dễ đọc, và góy gọn, xỳc tớch trong một văn bản duy nhất được viết một.
Việc không quy định này có thể đem lại điều bất lợi cho bên dự kiến nhận quyền nếu bên nhượng quyền soạn một bản giới thiệu với toàn những từ ngữ khó hiểu, và dễ gây hiểu lầm. Bạn phải nhận được bản giới thiệu này ít nhất là 14 ngày làm việc trước khi bạn ký vào bất cứ một hợp đồng nào, hoặc trả bất cứ khoản tiền nào cho bên nhượng quyền hoặc đại lý của bên nhượng quyền mà có liên quan đến việc nhượng quyền này.
Như vậy, một bên dự kiến nhận quyền khi tìm hiểu văn bản pháp luật này là có thể hiểu qua được một cách khái quát về những loại thông tin liên quan đến bên nhượng quyền mà mỡnh cú quyền được biết và cú thể yờu cầu được cung cấp. Sau khi kết thúc năm tài chính, bên nhượng quyền, trong thời hạn 120 ngày, chuẩn bị công bố một tài liệu sửa đổi, sau đó một người bán nhượng quyền thương mại chỉ có thể phân phối các tài liệu được sửa đổi và công bố mà không được cung cấp thêm các tài liệu khác.
Đồng thời, cũng phải thể hiện trong bản giới thiệu NQTM trong thời gian 10 năm trước khi bản giới thiệu NQTM được đưa ra có những sự việc sau: các bên đã bị kết án hình sự vì trọng tội; đã phải chịu án dân sự liên quan đến nhượng quyền thương mại, chống độc quyền, hoặc luật chứng khoán, hoặc liên quan đến cáo buộc gian lận, thực hành không công bằng hay lừa đảo, hoặc các cáo buộc tương tự. Thường thì bên nhượng quyền sẽ là bên có nghĩa vụ thực hiện các công việc liên quan đến quảng cáo, còn các bên nhận quyền sẽ đóng quỹ quảng cáo hoặc cũng có khi không phải đóng một khoản tiền vào quỹ quảng cáo riêng, mà nó được bao gồm vào cả chi phí mà bên nhận phải trả cho bên nhượng quyền lúc ban đầu, hoặc hàng tháng, hàng quý.
Nếu nhiều sự kiện xảy ra trong quá trình chuyển giao quyền sở hữu của một cửa hàng, thì báo cáo các sự kiện xảy ra trong thời gian cuối. Nếu một cửa hàng duy nhất thay đổi quyền sở hữu hai hoặc nhiều lần trong cùng một năm tài chính, sử dụng ghi chũ để mô tả các thay đổi liên quan và trình tự trong đó những thay đổi xảy ra.
Theo đó, phí nhượng quyền ban đầu có nghĩa là tất cả các khoản phí và khoản phải trả hoặc cam kết trả tiền, cho dịch vụ hoặc hàng hóa được nhận từ bên nhượng quyền hoặc bất cứ chi nhánh nào trước khi công việc kinh doanh của bên nhận quyền được khai trương, cho dù phải trả tiền một lần hoặc trả góp. Chi phí ban đầu, chi phí đào tạo, chi phí phải trả cho tài sản cố định (mua hay thuê), Trang thiết bị, đồ đạc, tài sản cố định khác, chi phí xây dựng, tu sửa, chi phí cải tiến khi thuê, và chi phí trang trí, cho dù mua hay thuê; Hàng dự trữ để bắt đầu hoạt động; bảo mật tiền gửi, tiền gửi tiện ích, giấy phép kinh doanh, và các chi phí trả trước khác.
Liệu bên nhượng quyền có phải bảo vệ quyền của bên nhận quyền trong việc sử dụng các nhãn hiệu quan trọng được liệt kê ở phần này, và phải bảo vệ bên nhận quyền trong các khiếu nại và trong các vụ xâm phạm hoặc cạnh tranh không công bằng phát sinh ngoài việc sử dụng nhãn hiệu của bên nhận quyền. - Thỏa thuận nhượng quyền có yêu cầu bên nhượng quyền tham gia vào việc bảo vệ bên nhận quyền và/hoặc bảo lãnh, Bồi thường, đền bù, Bảo đảm cho bên nhận quyền trong các chi phí hoặc bồi thường thiệt hại mà bên nhận quyền phải chịu trong các tố tụng hành pháp và hành chính liên quan đến.
Trong bản giới thiệu NQTM bên nhượng quyền phải thể hiện xem liệu công việc kinh doanh nhượng quyền diễn ra ở một địa điểm cụ thể hay là ở một địa điểm được chấp thuận bởi bên nhượng quyền, hạm vi lãnh thổ tối thiểu được bên nhượng quyền chấp nhận (ví dụ: một bán kính cụ thể hay một số dân nhất định hoặc theo một cách tính khác.), điều kiện mà theo đó bên nhượng quyền sẽ chấp. Nếu bên nhượng quyền không đảm bảo sự độc quyền thỡ phải ghi rừ :”bạn sẽ khụng nhận được sự đảm bảo về độc quyền lãnh thổ, bạn sẽ phải đối diện với việc cạnh tranh từ các bên nhận quyền khác, từ các của hàng của chúng tôi, hoặc từ các kenh phân phối khác hoặc từ các thương hiệu khác thuộc sự kiểm soát của chúng tôi” [4, điều 436.5, phần mục 12].
Thay vào những báo cáo về tài chính được yêu cầu bởi mục (u)(1)(i) và (ii) của phần này, bên nhượng quyền có thể cung cấp các báo cáo tài chính của các chi nhánh của mình nếu các báo cáo tài chính đó thỏa mãn yêu cầu trong đoạn (U)(1) (i) và (ii) của phần này và các chi nhánh này hoàn toàn và tuyệt đối bảm đảm gánh vác nghĩa vụ và trách nhiệm của bên nhượng quyền trong hợp đồng nhượng quyền. Với hệ thống nhượng quyền mới mà vẫn chưa được kiểm toán báo cáo tài chính thì có thể thực hiện từng bước việc kiểm toán báo cáo tài chính bằng cách cung cấp ít nhất các báo cáo sau trong thời gian chỉ định.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo vốn chủ sở hữu và báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong 3 năm tài chính gần nhất của bên nhượng quyền.[4, điều 436.5, phần mục 12]. Túm lại, trong mục 17 (c) ghi rừ điều khoản “thay đổi” cú ý nghĩa như thế nào cho hệ thống nhượng quyền bao gồm, nếu có thể, một bản kê in sẵn mà bên nhận quyền có thể được yêu cầu ký vào hợp đồng với những điều khoản khác nhau và điều kiện khác so với hợp đồng gốc.
Ngoài các thông tin về việc nhượng quyền được cung cấp ở trên, bên nhượng quyền còn phải cung cấp cho bên dự kiến nhận quyền tất cả các thỏa thuận được đề nghị để xem xét việc nhượng quyền, bao gồm hợp đồng nhượng quyền và tất cả các thỏa thuận thuê, thỏa thuận về quyền mua chứng khoán và thỏa thuận mua. Theo pháp luật Hoa Kỳ thì việc biên nhận đó có thể được thực hiện bằng cách ghi vào phần cuối của bản giới thiệu NQTM “tôi đã nhận được bản giới thiệu NQTM ghi ngày và bản giới thiệu bao gồm các tài liệu đính kèm sau đây”.
Đồng thời, trong nội dung biờn nhận cũng phải ghi rừ tờn trụ sở kinh doanh chính, số điện thoại của mỗi người đề nghị nhượng quyền hoặc ghi rừ tờn và địa chỉ của đại lý cho bờn nhượng quyền đó ủy quyền. Bất cứ khoản thù lao hay lợi ích nào được đưa hoặc hứa trả cho một nhân vật công chúng được phát sinh trong việc sử dụng nhân vật đó trong tên hoặc biểu tượng của thương hiệu nhượng quyền.
Pháp luật Việt Nam về Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại nhìn chung được xây dựng phù hợp với thông lệ quốc tế, có sự học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia sử dụng cơ chế điều chỉnh nhượng quyền thông qua Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại như Mỹ, Úc, Trung Quốc, Malaysia và đặc biệt là tiếp thu tinh thần luật mẫu về Bản giới thiệu nhượng quyền của Unidroit. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật cũng như hệ thống thủ tục hành chính để đảm bảo sự minh bạch hóa, thuận lợi trong tiếp cận thông tin (đặc biệt các thông tin liên quan đến tài chính) – qua đó giúp Bên nhận quyết nắm bắt được thông tin nào là trung thực - sẽ là sự hỗ trợ cần thiết cho cơ chế điều chỉnh bằng Bản giới thiệu nhượng quyền.