Tổng quan về dịch vụ Logistics của công ty APL

MỤC LỤC

Định hướng, quan điểm và các mục tiêu phát triển dịch vụ logistics đến năm 2020 và các năm tiếp theo

• Logistics là yếu tố động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt phát triển thương mại trong nước và xuất nhập khẩu, cung ứng và phân phối hàng hóa, dịch vụ đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. • Đẩy mạnh và hiện thực hóa kỹ năng quản trị logistics, quản trị chuyền cung ứng trong tất cả các cấp quản lý, các ngành, các doanh nghiệp có ý nghĩa thiết thực trong việc tái cơ cấu nền kinh tế hiện nay. • Giảm chi phí logistics trong cơ cấu GDP (hiện nay khoảng 25% GDP) của Việt Nam có ý nghĩa quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi định hướng, mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra.

• Logistics trong chiến lược phát triển hệ thống giao thông vận tải bền vững mà mục tiêu là vận tải đa phương thức với chất lượng cao là cơ hội cải tạo sản phẩm, dịch vụ đáp ứng tiêu dùng trong nước, nâng lợi thế cạnh tranh quốc gia, hội nhập kinh tế quốc tế. • Dịch vụ logistics hướng đến dịch vụ trọn gói 3PL (integrated third party logistics service) là chiến lược cạnh tranh để phát triển thị trường dịch vụ logistics của nước ta ngang tầm khu vực và thế giới cần được định hướng và hỗ trợ từ phía Nhà nước, các ngành có liên quan.

Mục tiêu phát triển dịch vụ logistics đến năm 2020 và các năm tiếp theo

• Phát triển logistics điện tử (e-logistics) cùng với thương mại điện tử và quản trị chuyền cung ứng an toàn và thân thiện là xu hướng thời đại.

CÔNG TY APL LOGISTICS VIỆT NAM

Ngành dịch vụ logistics của VN

    Tất cả những vấn đề này là mối đe dọa cho doanh thu hàng năm của công ty, một số có thể là ở cấp độ nội bộ, nhưng khác là ở mức độ chung, tuy nhiên, họ đều đóng một vai trò quan trọng trong dòng chảy tiền mặt của công ty. Hơn thế nữa, Việt Nam được đánh giá là rất yếu trong hoạch định và thực hiện chiến lược hệ thống giao thông vận tải , trong đó nổi cộm là hệ thống đường bộ, môi trường chính sách cho hoạt động vận chuyển trong đô thị và việc thực hiện chiến lược chung. Nếu chỉ cung cấp 2 dịch vụ cơ bản vận chuyển và kho vận, mà thiếu hẳn các dịch vụ giá trị gia tăng thì có thể thấy rằng ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, tức là vào những năm 70 của thế giới , và chỉ dừng ở mức độ thực hiện (execution) trong quan hệ khách hàng.

    " Ở Việt nam Logistics (và dịch vụ logistics(1)) vẫn còn là một khái niệm mới vì thế chưa có một cơ quan chuyên nghiệp phụ trách lĩnh vực này .Kết quả là Chính phủ chưa xây dựng một chính sách hay định hướng nào cho công tác logistics" (Phát triển logistics ở Việt nam, kế hoạch hành động, Tài liệu nghiên cứu của ADB, Ngân hàng Phát triển Châu Á). Cơ sở hạ tầng giao thông: sự sẵn có( availability) và chất lượng còn hạn chế, vai trò quan trọng của vận tải hàng hoá bằng đường bộ chiếm một tỉ trọng lớn (hơn 70%) sau đó là đường sông, đường biển, hàng không và đường sắt. Khung thể chế: ngày càng dễ thấy rằng các quy định và khái niệm về dịch vụ logistics (như Luật Thương mại năm 2005, nghị định 140/2007/NĐ-CP) không còn phù hợp với tình hình mới và xu thế phỏt triển(?), chưa làm rừ, thể chế hoỏ dịch vụ logistics cũng như tạo thuõn lợi cho người làm dịch vu và thúc đẩy thị trường dịch vụ logistics (thị trường dịch vụ thuê ngoài bên thứ ba (3PL) .Mới đây nghị định về vận tải đa phương thức (nghị định 87/2009/NĐ- CP được kỳ vọng là một bước tiến bộ nhưng theo một số chuyên gia trong ngành thì có phần không phù hợp với các quy định về vận tải đa phương thức quốc tế và chưa tạo điều kiện cho những người làm vận tải đa phương thức trong nước.

    Nhà cung cấp dịch vụ Logistics: Với các con số về thị phần và thực trạng những nhà cung cấp dịch vụ logistics Việt nam là rất khiêm tốn và ít ỏi , thị trường này đang nằm trong tay các "đại gia" nước ngoài. Năm 2010, ghi nhận một số các doanh nghiệp trong nước tiến hành các dịch vụ 3PL ( third party logistics) nhưng sự "bức phá" này vẫn chưa bền vững, còn thiếu tính chuyên nghiệp, kỹ năng, mạng lưới, công nghệ, kỹ thuật và vốn liếng đầu tư hệ thống thông tin hiệu quả.Sự cạnh tranh về giá, hoạt động manh mún, chụp giựt lẫn nhau , làm thuê cho các 3PL, 4PL nước ngoài ngay tại sân nhà ..vẫn là các " đánh giá chung" trên các diễn đàn khi nói về những nhà cung cấp dịch vụ logistics tại Việt nam. Người sử dụng dịch vụ logistics, thương nhân, nhà sản xuất: Đã có nhận xét "Các công ty thương mại Việt nam nhìn chung là không biết được tầm quan trọng của việc quản trị logistics và chuyền cung ứng cũng như những lợi ích tiềm năng đi kèm với nó" (Tài liệu nghiên cứu của ADB, Kế hoạch hành động Logistics Việt nam).

    Kết quả là logistics thường được coi ngang hàng với vận tải và việc sử dụng dịch vụ thuê ngoài logistics được xem là ngoại lệ thay vì là thói quen ( thích tự làm lấy để được "chủ động" và còn dễ giải trong việc chi trả các chi phí logistics). Tóm lại hệ thống dịch vụ logistics của Việt nam còn nhiều hạn chế trên nhiều mặt: cơ sở hạ tầng giao thông , khung thể chế còn khập khiễng, nhận thức logistics còn nghèo nàn từ hai phía cơ quan quản lý và người sử dụng dịch vụ logistics.Người cung cấp dịch vụ logistics Việt nam hạn chế về năng lực, thiếu đào tạo kỹ năng tay nghề, hoạt động manh mún và cung cấp các dịch vụ đơn giản, dễ làm, thị trường dịch vụ logistics chưa tạo điều kiện để phát triển trong khi đó người sử dung dịch vụ: thương nhân, nhà sản xuất cũng cần hiểu được lợi ích của việc thuê ngoài. Sau khi thực hiện tốt các khâu trên, việc cuối cùng mà công ty cần làm đó là mở rộng việc tuyên truyền về dịch vụ mới này, làm cho khách hàng cảm thấy sau khi gửi hàng của APL là họ tin chắc hàng hoá của mình sẽ đến tay được người mua.

    Sơ lược về Cty APL Logistics VN 1. Lịch sử hình thành và phát triển

      Với ưu thế sẵn có của một hãng tàu hàng đầu thế giới, APL đã giành được vị thế thứ 2 trong bảng xếp hạng các hãng tàu của Việt Nam sau Maersk Sealand. Dưới sự lãnh đạo của bà Ong Toi Kin (nhiệm kì 2000-2004), APL Việt Nam từng bước đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, đóng góp mạnh mẽ vào sự phát triển của ngành hàng hải Việt Nam nói riêng và ngành vận tải Việt Nam nói chung. Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ bắt đầu có hiệu lực, hoạt động kinh doanh trao đổi buôn bán giữa hai nước ngày càng phát triển nhanh chóng.

      Nắm bắt thời cơ đồng thời khai thác tối đa ưu thế sẵn có của một hãng tàu hàng đầu thế giới, APL bắt đầu triển khai mạnh các dịch vụ chuyên chở hàng đi Mỹ. Ngày 03/8/2004, APL khai trương tuyến vận tải VCX (Vietnam China Express) còn gọi là Việt Nam - Trung Hoa tốc hành chuyên phục vụ cho hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ. Cụ thể thời gian từ thành phố Hồ Chí Minh đến các cảng chính bờ Tây nước Mỹ như Los Angeles, Seattle, Oakland, Long Beach chỉ mất khoảng 16 đến 18 ngày.

      Thời gian vận chuyển từ thành phố Hồ Chí Minh sang các cảng chính bờ Đông nước Mỹ (New York, Savanah, Miami, Norfolk, Charleston) chỉ mất khoảng 22 ngày. Nếu tận dụng hết khả năng của từng nhân viên và có chính sách đào tạo thêm để phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế hiện nay, sẽ góp phần rất lớn cho sự phát triển của công ty trong tương lai. BOÄ PHAÄN QUAÛN LYÙ BOÄ PHAÄN KHAI THAÙC BOÄ PHAÄN QUAÛN TRề HEÄ THOÁNG BOÄ PHAÄN KINH DOANH BOÄ PHAÄN TAỉI CHÍNH BOÄ PHAÄN CHAấM SOÙCKHAÙCH HAỉNG BOÄ PHAÄN CHệÙNG Tệỉ.

      Đại lý giao nhận , tổ chức dịch vụ hàng hoá và hợp đồng đại lý trong và ngoài nước Làm đại lý cho các tàu biển như lo thủ tục xúât nhập cảnh , hoa tiêu , bến bãi , công nhân bốc xếp cung ứng dịch vụ …. Thực hiện chính sách linh hoạt về giá cước vận chuyển, phối hợp tốt hoạt động giwuax hãng tàu và đại lý, cùng đưa ra một mức giá có thể dao động sao cho hãng tàu vừa có đươck lợi nhuận vừa thu hút khách hàng. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lwucj, APL phải có các cuộc thi tuyển đầu vào nghiêm ngặt, trong quá trình làm việc, thường xuyên mở các lớp đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn.