MỤC LỤC
Viettel tài trợ miễn phí việc kết nối Internet băng thông rộng, thiết bị kết nối và thuê bao hằng tháng tới tất cả các trường phổ thông, mẫu giáo, mầm non, phòng Giáo dục và Đào tạo, các trung tâm giáo dục thường xuyên, các trung tâm giáo dục cộng đồng (trị giá hỗ trợ khoảng 330 tỷ/năm), tính đến tháng 7/2009 đã có khoảng 19.000 trường trong tổng số 38.000 trường được miễn phí lắp đặt và phí truy cập Internet. 4 tỉnh Điện Biên, Đăk Lăk, Cà Mau và TP Hồ Chí Minh đã hoàn thành 100% kết nối mạng giáo dục của Viettel tới các trường học có điện lưới. Hiện nay, hạ tầng CNTT tại các Sở Giáo dục và Đào tạo đã khá hoàn thiện. Các tỉnh, thành phố có tỉ lệ học. 100% trường THPT, TCCN có máy tính phục vụ công tác quản lý và văn phòng, máy chiếu và phòng máy tính phục vụ dạy môn Tin học. Một số tỉnh khó khăn vẫn thiếu máy tính phục vụ công tác thư viện cũng như phục vụ giáo viên dạy học. Thiết bị CNTT ở các trường THCS về cơ bản có thể đáp ứng được công tác văn phòng và quản lý điều hành tại trường học. Tuy nhiên, các trường THCS ở vùng sâu, vùng xa đều gặp khó khăn về thiết bị CNTT. Nhiều trường không thể kết nối được Internet bằng cáp, thậm chí còn chưa có điện lưới. Phần lớn kinh phí đầu tư thiết bị CNTT trong ngành là huy động từ các nguồn của các cơ sở Giáo dục và Đào tạo, Chương trình mục tiêu quốc gia. Nhiều địa phương huy động xã hội hóa việc mua sắm thiết bị CNTT trong trường học. b) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác điều hành và quản lý giáo dục. Đặc biệt, đã có một số Phòng giáo dục và đào tạo huyện cũng đã triển khai tổ chức mô hình này như ở các huyện: Đông Triều (Quảng Ninh), Quỳnh Lưu (Nghệ An), Di Linh (Lâm Đồng)… Đây là mô hình đưa thông tin 2 chiều đến tuyến xã cần được nhân rộng. Cục CNTT đã trực tiếp triển khai hệ thống phần mềm quản lý học sinh, giáo viên, hỗ trợ xếp thời khóa biểu trong nhà trường phổ thông tới 35 tỉnh,. Nhiều tỉnh, thành sau đó đã tiếp tục nhân rộng, tổ chức tập huấn sử dụng hệ thống phần mềm quản lý này đến toàn bộ các trường THCS trên địa bàn. c) Đẩy mạnh hợp lý việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy và học ở từng cấp học.
Tuy nhiên, một số UBND cấp tỉnh chưa giao Sở Giáo dục và Đào tạo quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đối với các tổ chức trực thuộc sở; chưa chuyển giao trường Cao đẳng sư phạm về sở giáo dục và đào tạo quản lý; Một số sở chưa tích cực chủ động làm tham mưu để UBND cấp tỉnh hướng dẫn UBND cấp huyện quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của phòng giáo dục và đào tạo. Bộ và các Sở đã thực hiện các quy trình giao dịch hành chính theo cơ chế "một cửa"; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, điều hành (thiết lập ổn định hệ thống địa chỉ email, giao dịch văn bản điện tử, đăng tải văn bản quy phạm pháp luật lên Website, hội nghị qua mạng, các phần mềm quản lý..). Bộ đã thành lập tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính, triển khai hoạt động trong cơ quan Bộ theo hướng dẫn của Tổ công tác chuyên trách của Chính phủ; tổ chức lớp tập huấn cho cán hành chính tại các Cục, Vụ, Viện, Thanh tra, các đơn vị có liên quan. b) Thực hiện đổi mới cơ chế tài chính giáo dục đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo được Chính phủ giao chủ trì xây dựng Đề án Đổi mới cơ chế tài chính của giáo dục và đào tạo giai đoạn 2009-2014. Thực hiện 3 công khai: công khai chất lượng đào tạo; công khai các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên;. công khai thu, chi tài chính; thực hiện 4 kiểm tra: kiểm tra việc phân bổ và sử dụng ngân sách giáo dục đào tạo; kiểm tra việc thu và sử dụng học phí trong các nhà trường; kiểm tra việc sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của người dân. và các tổ chức cho nhà trường; kiểm tra việc thực hiện chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và xây dựng nhà công vụ cho giáo viên. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác tín dụng đối với học sinh, sinh viên: đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách này đến từng học sinh, sinh viên; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác tín dụng đào tạo; phối hợp với Ngân hàng chính sách xã hội xây dựng phần mềm quản lý tín dụng đối với HSSV; kịp thời phối hợp chỉ đạo giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện. c) Khuyến khích các nguồn lực phát triển giáo dục.
Tuy nhiên, một số đơn vị do nghiên cứu chưa kỹ quy định về đối tượng hưởng chính sách của Nghị định Chính phủ và Thông tư liên Bộ, còn bỏ sót đối tượng cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, nhà giáo là người có hộ khẩu thường trú ở địa phương nơi trường đóng, chưa được hưởng chế độ phụ cấp thu hút theo quy định. Trong dịp Tết nguyên đán Kỷ Sửu, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gửi thư kêu gọi các tổ chức, cá nhân, các nhà hảo tâm, các địa phương quan tâm, huy động các nguồn kinh phí hỗ trợ cho các thầy cô giáo ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn kết quả đã ủng hộ được trên 3,4 tỷ đồng.
Công tác TBDH phục vụ khai giảng năm học mới, những địa phương triển khai kịp thời: Yên Bái, Thái Nguyên, Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Bà Rịa -Vũng Tàu, Long An, An Giang, Tiền Giang. Một số tỉnh miền núi gặp khó khăn về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, ở một số thành phố lớn trực thuộc Trung ương do diện tích khuôn viên trường không đủ tiêu chuẩn nên tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia còn thấp.
Giáo dục mầm non, giáo dục dân tộc đặc biệt đối với vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc được đẩy mạnh; các giải pháp nhằm khắc phục tình trạng học sinh ngồi sai lớp, học sinh yếu kém, học sinh bỏ học các cấp học được triển khai quyết liệt; việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá đối với các môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân được triển khai mạnh mẽ; thi tốt nghiệp THPT và bổ túc THPT năm 2009 được cải tiến qua việc thi theo cụm trường và chấm chéo bài tự luận giữa các tỉnh, đảm bảo nghiêm túc và khách quan; duy trì giao ban vùng định kỳ có chất lượng, kịp thời xử lý các vấn đề nảy sinh. Lãnh đạo Bộ và các Vụ đã thường xuyên đi sâu đi sát nắm bắt tình hình cụ thể, những khó khăn, vướng mắc của các vùng trên toàn quốc; phối hợp với các ban ngành đoàn thể, UBND và chính quyền địa phương các cấp đề ra các giải pháp tích cực phục vụ phát triển giáo dục của các địa phương.
Cơ sở vật chất giáo dục đã tiếp tục được cải thiện, nhất là ở các vùng khó khăn. Các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, từ hợp tác quốc tế và từ xã hội đã được kết hợp để đẩy mạnh việc kiên cố hóa trường, lớp học, xây dựng nhà công vụ cho giáo viên và ký túc xá cho sinh viên.
Sử dụng CNTT trong dạy và học còn gặp nhiều khó khăn nhất là ở các vùng sâu, vùng xa.
Tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định số 149/2006/QĐ-TTg ngày 23/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ; tập trung phát triển quy mô, mạng lưới trường, lớp mầm non phù hợp với yêu cầu và tình hình thực tế của địa phương; thực hiện chương trình phổ cập mẫu giáo 5 tuổi, tập trung chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số để trẻ vào học lớp 1; triển khai đại trà chương trình giáo dục mầm non mới, đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống dưới 10%. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp của các cấp, các ngành, các đoàn thể, các địa phương và với nỗ lực phấn đấu của toàn ngành thực hiện năm học với chủ đề "Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục", chúng ta tin tưởng rằng sự nghiệp giáo dục và đào tạo sẽ có được những chuyển biến mạnh mẽ, tạo tiền đề đáp ứng tốt hơn yêu cầu hình thành lớp thanh niên có năng lực công dân mới, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Khuyến khích xây dựng và áp dụng kế hoạch thời gian năm học đồng bộ cho các cấp học trong trường phổ thông có nhiều cấp học, các cấp học trên một địa bàn dân cư, đặc biệt là đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở. Các ông (bà) Chánh Văn phòng và thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.