Thực trạng quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật ở Việt Nam và những yêu cầu đổi mới

MỤC LỤC

Hiệu quả và những đặc trưng cơ bản về quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản

Kinh nghiệm từ Liên Xô (trước đây) và các nước Đông Âu chứng tỏ rằng, các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội đã tận dụng vai trò lợi hại của báo chí, xuất bản gây mất ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, dấn đến sự sụp đổ và tan vỡ Đảng Cộng sản và chính quyền cách mạng. Các chủ thể xuất bản, chủ thể quản lý với địa vị pháp lý, với các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, góp phần đảm bảo cho ý chí của Nhà nước được thực hiện trong thực tế về việc xây dựng một nền văn hoá mới, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; loại trừ và ngăn chặn những độc hại về văn hoá.

Pháp luật - phương tiện quản lý Nhà nước về xuất bản

Như vậy, việc hình thành các chuẩn mực pháp luật trong những tình huống, hoàn cảnh, điều kiện nhất định của các quan hệ xã hội là tạo hành lang hoạt động an toàn để xuất bản góp phần đảm bảo ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội và tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát triển. Vì vậy, pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa đối vơí hoạt động xuất bản; ngăn chặn việc công bố và phổ biến xuất bản phẩm độc hại, xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, tập thể, cá nhân, ảnh hưởng tới tư tưởng và tình cảm lành mạnh của công chúng. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là quá trình cấu trúc lại cơ cấu xuất bản, cơ cấu sở hữu, cơ cấu nhân lực và lao động xuất bản, là quá trình đổi mới sâu sắc tư duy xuất bản về tuyên truyền, giáo dục về khoa học, đặc biệt về kinh tế, quản lý kinh tế, xã hội, pháp luật, kể cả tâm lý xã hội đối với xuất bản.

Vì vậy, xuất bản đã góp phần đắc lực cho sự ổn định chính trị, mở rộng dân chủ, đổi mới tư duy, mở mang tri thức, nâng cao dân trí, hoà nhập vào khu vực và cộng đồng quốc tế, đấu tranh với các tư tưởng thù địch, thông qua xuất bản phẩm của mình.

Nội dung điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản 1. Hoạch định chiến lược phát triển xuất bản theo định hướng xã hội

Việc bảo vệ lợi ích người tiêu dùng xuất bản phẩm, không chỉ dừng lại về phương diện kinh tế, chất lượng kỹ, mỹ thuật, mà quan trọng hơn là sự lành mạnh và đảm bảo các giá trị tư tưởng, khoa học và nghệ thuật của xuất bản phẩm. Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động xuất bản, từ hoạt động của các chủ thể xuất bản, in, phát hành, xuất nhập khẩu vật tư thiết bị xuất bản, xuất nhập khẩu xuất bản phẩm đến hoạt động của các chủ thể trong lập pháp, hành pháp và tư pháp là các nội dung đa dạng và phong phú cần được điều chỉnh bằng pháp luật. Đó là: quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật là mở đường cho hoạt động sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; là bảo tồn, phát triển nền văn háo dân tộc, hiện đại và nhân văn, tiếp thu tinh hoa văn hoá và tiến bộ về khoa học - công nghệ của nhân loại; là quản lý hoạt động thuộc lĩnh vực văn hoá tư tưởng đồng thời là hoạt động sản xuất kinh doanh.

Chín vì vây, pháp luật là phương tiện tạo lập môi trường tự do sáng tạo, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tác giả; đảm bảo cho xuất bản phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, loại trừ xuất bản phẩm độc hại, nâng cao hiệu quả công ty, kinh tế xã hội trong xuất bản, chống thương mại hoá xuất bản ; đồng thời là phương tiện bảo vệ lợi ích người tiêu dùng xuất bản phẩm.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM

Sự hình thành hoạt động quản lý Nhà nước bằng pháp luật ở Việt Nam

Xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế xã hội, để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, hoà nhập với xu thế phát triển của thời đại, Đại hội lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mơí. Hiến pháp 1992 và các đạo luật lần lượt ra đời, thể chế hoá nghị quyết Đại hội VI. Như vậy, từ tháng 7/1993 ở Việt Nam hoạt động xuất bản đã có những quy tắc xử sự trong các quan hệ xã hội về xuất bản ghi tại Luật xuất bản mới.

Những cơ sở pháp lý, hành lang pháp luật đã được hình thành, tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản phát triển, việc điều hành của cơ quan quản lý Nhà nước, kiểm soát và xử lý của các cơ quan tư pháp.

Pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản ở Việt Nam - Thực trạng

Việc thay đổi tên gọi của các cơ quan có thẩm quyền chung như: Chính phủ, Hội đồng bộ trưởng, rồi Chính phủ, thay đổi tên gọi của cơ quana có thẩm quyền riêng là Văn hoá, rồi Văn hoá - thông tin cũng không thay đổi một cơ cấu quản lý về xuất bản ổn định, thống nhất đã được hình thành từ trung ương đến địa phương. - Việc thực hiện thẩm quyền kiểm tra, giám sát, bảo vệ pháp luật của các cơ quan thuộc khối nội chính (công an, kiểm sát, toà án, thuế vụ, hải quan v.v..) và sự tôn trọng quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở xuất bản là quan hệ cần thể hiện sự rạch ròi và công minh của pháp luật. Nếu có hệ thống tổ chức thanh tra chuyên ngành về hoạt động xuất bản trong cả nước, thì cũng không đủ tai mắt để kiểm soát, vì vậy phải tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho các chủ thể tham gia các quan hệ xuất bản, cho công dân là những người thợ in, người phát hành, người làm xuất bản.

Từ chỗ xem xét chặt chẽ kế hoạch xuất bản với chế độ nhận sách thường xuyên để học kiểm tra những năm trước đây, đến chỗ không nắm được phương hướng mục tiêu hoạt động của các nhà xuất bản, phải tìm sách để đọc khi có dư luận, nhằm giữ vững vai trò của Đảng trong việc kiểm tra đề tài, nội dung xuất bản.

NHỮNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM

Về mặt lý luận

- Nhận thức thế giới khách quan là một quá trình trong đó việc tiếp cận được các quy luật khách quan phải trải qua nhiều nấc thang, từ xa tới gần, từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng đến bản chất. Nó đan xen giữa văn hoá - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo của tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu thông và tiêu dùng xuất bản phẩm. Việc chuyển nền kinh tế sang có chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực chất là quá trình cấu trúc lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu sở hữu, cơ cấu lao động.., từ đó dẫn đến đổi mới sâu sắc văn hoá, giáo dục, khoa học, pháp luật, tâm lý xã hội, v.v.

- Hoạt động sáng tạo, sản xuất, phổ biến và tiêu dùng các sản phẩm văn hoá nói chung, xuất bản phẩm nói riêng có những đặc trưng riêng biệt, káhc các lĩnh vực sản xuất, lưu thông và tiêu dùng các sản phẩm vật chất thuần tuý.

Về mặt thực tiến

Để cụ thể quyền công dân ghi nhận tại Hiến pháp, Sắc luật số 003/SLt năm 1957 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký đã quy định cụ thể về chế độ xuất bản ở Việt Nam. Hai văn bản luật trên đã xác lập hành lang pháp luật, đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất bản đúng hướng, phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến thiết đất nước, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ xuất bản phẩm của nhân dân, góp phần mở rộng giao lưu với các nước. Trong hoàn cảnh tiếp tục sự nghiệp đổi mới và cơ chế thị trường, pháp luật vốn đã quan trọng, nay trở nên phương tiện hàng đầu trong việc quản lý xã hội nói chung xuất bản nói riêng.

Các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp của Nhà nước về xuất bản phải luôn luôn được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới đất nước.

HỆ THỐNG NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN

    Định hướng xã hội chủ nghĩa trong xuất bản là định hướng nhằm đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng, khoa học và nghệ thuật của xuất bản phẩm, với chi phí thấp nhất, để từng bước thoả mãn nhu cầu đa dạng và phong phú của nhân dân, góp phần mở rộng giao lưu vơí các nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện được định hướng đó, cần thiét phải kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch xuất bản với việc hoạch định chính sách và thể chế dẫn dặt điều hành ngành xuất bản theo định hướng chính trị, xử lý kịp thời những mất cân đối và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện. Vấn đề là ở chỗ, tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng lĩnh vực (xuất bản, in, phát hành) mà xác định mức độ, phạm vi phù hợp để tư nhân tham gia hoạt động xuất bản, làm như vậy vừa phát triển được tiềm năng của xã hội cho sự phát triển, vừa đảm bảo trật tự, kỷ cương và sự lành mạnh của xuất bản phẩm.

    Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương hoá không dừng lại ở các cấp chính phủ mà còn với các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, tổ chức văn hoá, xuất bản.Việc tham gia các quan hệ quốc tế về văn hoá, xuất bản phải phù hợp với các hiệp định song phương, liên quốc gia mà Việt Nam đã ký kết.