Ưu nhược điểm của Doanh nghiệp tư nhân so với Công ty hợp danh

MỤC LỤC

ĐÁNH GIÁ PHÂN TÍCH VỀ MÔ HÌNH DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN

Hạn chế

Việc không có sự tách bạch về tài sản giữa chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp dẫn đến khi có rủi ro xảy ra, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình và của cả DNTN chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp như ở loại hình công ty TNHH hoặc CTCP. Về cách thức huy động vốn: Nếu như công ty Cổ phần có quyền phát hành cả cổ phiếu và trái phiếu, công ty TNHH có quyền phát hành trái phiếu để huy động vốn (đây là lợi thế của hai loại hình này) thì DNTN lại không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.

Đánh giá

Nếu chế độ sở hữu và chịu trách nhiệm như phân tích ở bên trên được coi là một ưu điểm của DNTN thì nó cũng là một nhược điểm rất lớn của loại hình doanh nghiệp này. Với trách nhiệm vô hạn của mình, hầu hết các chủ doanh nghiệp tư nhân không tham gia vào các hoạt động đầu tư lớn, mang tính rủi ro cao gây mất cân đối cho nền kinh tế. Chính quy định này đã hạn chế đi khả năng tài chính để mở rộng phạm vi kinh doanh của DNTN khi khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp là có hạn.

Bởi vậy, đây cũng là một quy định gây bất lợi cho nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào loại hình này.

So sánh luật DNTN của Việt Nam với Trung Quốc

    Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khi thành lập doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tự khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán của doanh nghiệp, đây là tài sản của doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam còn quy định một số trường hợp cấm trong khi lựa chọn tên cho doanh nghiệp: không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức chính trị xã hội, không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử văn hoá, đạo đức. Hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam: giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất, bản sao giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, văn bản xác nhận phần vốn pháp định của doanh nghiệp nếu kinh doanh trong những ngành nghề có yêu cầu vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề của chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc giám đốc doanh nghiệp.

    Việc cho thuê doanh nghiệp không làm hạn chế tư cách pháp lý của doanh nghiệp đó, cũng không làm thay đổi chủ sở hữu của doanh nghiệp, nên chủ doanh nghiệp tư nhân đã đăng ký vẫn phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và các bên thứ ba. Việc bán toàn bộ doanh nghiệp tư nhân được hiểu là việc chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp tư nhân cho người khác, cũng giống như với việc cho thuê doanh nghiệp, bán doanh nghiệp cũng bao gồm việc bán các tài sản và các giá trị khác của doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt cơ bản về chế định giải thể theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc đó là: theo Luật doanh nghiệp tư nhận Trung Quốc tại Điều 28 thì Sau khi doanh nghiệp tư nhân giải thể, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu các trách nhiệm bồi hoàn các khoản nợ trong thời gian doanh nghiệp hoạt động.

    CÔNG TY HỢP DANH

    KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH

    • khai niệm va dặc diểm cong ty hợp danh
      • Những Vấn Dề Pháp Lý Cơ Bản Về Công Ty Hợp Danh 1. Thanh Lập Cong Ty Hợp Danh
        • vốn góp và phần vốn góp trong cthd
          • quản lý điều hành trong công ty hợp danh
            • giải thể và phá sản công ty hợp danh

              - Các thành viên trong CTHD phải có tư cách thương gia vì các thành viên này là đồng sở hữu, cùng nhau trực tiếp thực hiện việc quản lý điều hành công ty, đặc biệt là họ cùng nhau chịu trách nhiệm vô hạn về nghĩa vụ của công ty nên phải có hiểu biết sâu sắc và kinh nghiệm kinh doanh để giảm thiểu triệt để những rủi ro trong kinh doanh (pháp luật Pháp). Điều này đã chứng tỏ sự cứng nhắc của pháp luật hiện hành .Bên cạnh đó, theo pháp luật hầu hết các nước thì hợp danh đơn giản chỉ là một nhóm người, một hội, không phải là loại hình công ti như quy định của Việt Nam (ví dụ như ở Trung Quốc, nước này tách bạch giữa partnership và company/corporation; Luật doanh nghiệp ngày 27/10/2005 chỉ điều chỉnh công ti TNHH và Công ti CP; quy định về hợp danh được điều chỉnh bởi các nguyên tắc của dân luật và quyền giải thích của tòa án). Ngoài các quy định của LDN, các quy định chung từ điều 388 đến điều 411 của Bộ Luật dân sự (BLDS) 2005 vẫn có thể được dẫn chiếu để xem xét hiệu lực của thỏa thuận hợp danh, việc tuân thủ các nghĩa vụ đã cam kết của các thành viên cũng như trách nhiệm pháp lí nếu có vi phạm.

              Các quyền và nghĩa vụ chung của 2 loại thành viên này là: có quyền sở hữu đối với tài sản của công ty, được chia lợi nhuận, được nhận thông tin từ: hoạt động kinh doanh và quản lý công ty, xem sổ kế toán và các hồ sơ khác: góp đủ số vốn đã cam kết, chấp hành các nội quy và quyết định của công ty…. Tuy không có quyền nhân danh công ti và quản lí công ti như các TVHD những TVGV cũng có quyền dự hợp, thảo luận và biểu quyết tại hội đồng thành viên về các sửa đổi điều lệ công ti có thể liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ (điểm b khoản 2 điều 140, điểm a khoản 1 điều 140 LDN 2005). Với những đặc điểm về TVGV trên, nếu có vốn và muốn đầu tư kinh doanh nhưng lại không có thời gian tham gia vào quản lí doanh nghiệp hoặc không có chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư, các nhà đầu tư có thể góp vốn vào CTHD làm TVGV hay nhận chuyển nhượng phần vốn góp từ thành viên góp vốn khác trong công ti HD.

              Đối với nhà đất, bên giao và và bên nhận phải tiến hành thủ tục đăng kí chước bạ điền địa (chuyển sổ đỏ); đối với tài sản khác phải làm biên bản giao nhận (theo khoản 1 điều 29, khoản 1 điều 132 LDN).Các thành viên công ti phải thực hiện đúng nghĩa vụ góp vốn đủ và đúng hạn. - Bước 3: Thông báo quyết định giải thể đến cơ quan ĐKKD, chủ nợ, người có quyền và lợi ích liên quan…Các TVHD tiến hành thông báo công khai về việc giải thể thông qua việc niêm yết quyết định giải thể tại trụ sở chính của Doanh Nghiệp, đăng báo địa phương và trung ương trong 3 số liên tiếp.

              ĐÁNH GIÁ PHÂN TÍCH VỀ MÔ HÌNH CTY HỢP DANH

              • thực trạng về công ty hợp danh ở việt nam
                • một số kiến nghị

                  Theo Luật Hợp danh thống nhất của Hoa Kỳ thì TVHD sẽ phải thanh toán cho chủ nợ của TVHD trước, sau đó mới đến nợ của công ty (quy định này áp dụng ngay cả khi chủ nợ của công ty cũng chính là chủ nợ của thành viên hợp danh). Còn Bộ Luật Thương Mại Sài Gòn 1973 có quy định về cách thức trả nợ này của công ty của TVHD: tùy thuộc vào khế ước lập hội, nếu không sẽ do các hội viên quyết định theo đa số và nếu có Hội Viên bất đồng ý kiến có thể xin Tòa án xét xử. Các nhà kinh doanh khi tìm hiểu pháp luật cũng dễ dàng nhận ra những điểm yếu: CTHD không thể trở thành một bên của hợp đồng kinh tế theo pháp luật về hợp đồng của Việt Nam; khả năng huy động vốn hạn chế; những tranh chấp liên quan đến việc thành lập, tổ chức và hoạt động dễ xảy ra.

                  Số lượng CTHD đã được thành lập theo LDN có thể rất khiêm tốn nhưng trong thực tiễn kinh doanh Việt Nam không thiếu những mô hình liên kết với những đặc trưng có thể so sánh được với hợp danh (hiểu theo nghĩa rộng là mọi thỏa thuận hùn vốn, tạo lập tài sản, kinh doanh chung, chia sẻ điều hành và lỗ lãi…). - Việc quản lí cơ sở kinh doanh có thể gặp khó khăn vì tất cả các TVHD đều có quyền dự họp, thảo luận và biểu quyết, thậm chí mỗi thành viên có thể có một phiếu biểu quyết với cách thức dân chủ có thể so sánh được với các HTX, cơ chế đồng thuận này làm cho việc quyết định kinh doanh đôi khi trở nên mất thời gian. Điều này sẽ giúp cho công ti hợp danh huy động vốn một cách dễ dàng hơn, thu hút được các nhà đầu tư hơn, thuận lợi hơn trong quá trình kinh doanh, nhất là thực tế CTHD ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, lại mang bản chất đối vốn nên rất thiếu vốn hoạt động.