Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
* Phương pháp luận: Chủ nghĩa Marx - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu được áp dụng bao gồm sự kết hợp giữa các phương pháp lịch sử và logic, đồng thời thực hiện phân tích tổng hợp các tài liệu như Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, cũng như tài liệu lịch sử và truyền thống của ngành ngoại giao nhân dân Qua đó, nhằm rút ra nhận thức hệ thống về vấn đề nghiên cứu.
Trong suốt 2 tháng thực tập tại Liên hiệp, chúng tôi đã áp dụng phương pháp quan sát và tham gia vào các hoạt động thực hiện nhiệm vụ đối ngoại nhân dân Qua đó, chúng tôi tích lũy được kiến thức thực tiễn, giúp hệ thống hóa vấn đề nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra nhận xét, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân của Liên hiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Mục đích - Ý nghĩa đề tài
Nghiên cứu đề tài này không chỉ củng cố kiến thức lý luận mà còn nâng cao hiểu biết thực tiễn cho sinh viên chuyên ngành Quan hệ quốc tế và Đông Nam Á học.
Góp phân nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
Khóa luận này là tài liệu tham khảo quý giá cho sinh viên ngành Quan hệ quốc tế và ngoại giao, giúp họ nghiên cứu chuyên sâu về công tác ngoại giao nhân dân.
Bố cục
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, phụ lục, Khóa luận tốt nghiệp được thiết kế qua 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác đối ngoại nhân dân
Chương 2: Công tác ngoại giao nhân dân của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua.
Chương 3 trình bày các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập hiện nay Những giải pháp này bao gồm việc tăng cường hợp tác quốc tế, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, và nâng cao nhận thức cộng đồng về ngoại giao nhân dân Đồng thời, việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngoại giao cũng được nhấn mạnh để tăng cường sự kết nối và tương tác với các đối tác toàn cầu.
C ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ T H ựC TIỄN 1.1 Những thuật ngữ liên quan đến đề tài
Ngoại giao
Cơ quan làm công tác đối ngoại và các đại diện có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ và chính sách đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức và công dân ở nước ngoài, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề quốc tế qua đàm phán và hình thức hòa bình Đàm phán là nghệ thuật ngăn ngừa và giải quyết xung đột quốc tế, tìm kiếm thỏa hiệp và giải pháp chung Trước đây, ngoại giao chủ yếu là công việc của các bộ trưởng ngoại giao và đại sứ, nhưng hiện nay, các nguyên thủ quốc gia cũng tham gia thông qua các cuộc gặp thượng đỉnh và đàm phán cấp cao Ngoại giao còn diễn ra trong các hội nghị, ký kết điều ước quốc tế và tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế.
Ngoại giao là hoạt động thể hiện mối quan hệ giữa các quốc gia, bao gồm việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện các mối quan hệ quốc tế thông qua can thiệp hoặc hòa giải của các nhà ngoại giao Nó liên quan đến nhiều lĩnh vực như kinh tế, thương mại, văn hóa, du lịch, và chiến tranh, đồng thời góp phần tạo dựng nền hòa bình Về mặt xã hội, ngoại giao sử dụng khả năng xử trí và ứng biến để đạt được sự thuận lợi, đồng thời là công cụ giúp diễn đạt các tuyên bố một cách không đối đầu và thể hiện sự lịch thiệp trong giao tiếp.
Hoạt động ngoại giao có một lịch sử lâu dài, bắt đầu từ những mối quan hệ tiếp xúc giữa các bộ lạc nguyên thủy và các tập đoàn phong kiến Qua thời gian, những mối quan hệ này đã phát triển thành quan hệ giữa các quốc gia, tuy nhiên, chúng vẫn chỉ giới hạn trong những hoạt động cụ thể như tuyên chiến, đình chiến, ký hòa ước và tham dự lễ lên ngôi.
Sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia yêu cầu các dân tộc nhỏ yếu và chậm phát triển phải xây dựng chiến lược ngoại giao khôn khéo để liên kết và ứng phó với những cường quốc có tham vọng thôn tính Ngoại giao không chỉ phát triển các quan hệ liên minh và đồng minh chiến lược mà còn trở thành một yếu tố quan trọng trong chính sách của mỗi quốc gia.
Hiện nay, mọi quốc gia đều có Bộ ngoại giao hoặc cơ quan đại diện tham gia hoạt động ngoại giao toàn cầu về chính trị và xã hội Ngoài ngoại giao nhà nước, còn có ngoại giao nhân dân, mở rộng khái niệm ngoại giao từ công việc của các nhà ngoại giao chuyên nghiệp sang một nền ngoại giao toàn diện hơn Tại Việt Nam, bên cạnh hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước, các địa phương cũng tích cực tham gia vào ngoại giao nhân dân.
Đối ngoại và đường lối, chính sách đối ngoại
Từ xưa đến nay, mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều phải thực hiện ba nhiệm vụ quan trọng: bảo vệ và củng cố độc lập, chủ quyền quốc gia; tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ quốc tế để xây dựng và phát triển đất nước; và nâng cao ảnh hưởng của mình trong khu vực cũng như trên thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc, các chính sách ngoại giao của các quốc gia có sự tương tác mạnh mẽ với nhau Sự tương tác này được đánh giá và giám sát nhằm tối đa hóa lợi ích từ hợp tác quốc tế đa phương Chính sách đối ngoại thường được xây dựng bởi người đứng đầu chính phủ và các bộ trưởng, trong khi ở một số quốc gia, cơ quan lập pháp cũng đóng vai trò giám sát quan trọng.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đang áp dụng chính sách đối ngoại theo cách tiếp cận toàn diện, nhấn mạnh rằng ngoại giao cần đảm bảo tính “toàn diện” để phục vụ lợi ích quốc gia trong các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, an ninh - quốc phòng, văn hóa - xã hội, giáo dục - đào tạo và khoa học kỹ thuật Trong bối cảnh toàn cầu hóa, ranh giới giữa đối ngoại và đối nội, cũng như giữa ngoại giao chính trị và các lĩnh vực ngoại giao khác ngày càng mờ nhạt; sự phát triển của lĩnh vực này có thể ảnh hưởng tích cực đến lĩnh vực kia, cho thấy rằng một chính sách đối ngoại vững mạnh sẽ góp phần vào sự ổn định của đối nội Sức mạnh của ngoại giao cũng phụ thuộc vào nội lực của quốc gia.
Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh rằng sức mạnh thực sự là yếu tố quyết định để đạt được thành công trong ngoại giao Ông ví von rằng thực lực giống như cái chiêng, trong khi ngoại giao là âm thanh phát ra từ nó; chỉ khi chiêng có tiếng lớn thì âm thanh mới vang dội.
Hoạt động đối ngoại của Việt Nam hiện nay thực hiện theo đường lối do Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đề ra, nhấn mạnh vào việc duy trì chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hợp tác Việt Nam chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đồng thời tích cực hội nhập toàn cầu Đất nước hướng đến việc trở thành bạn bè, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tất cả vì lợi ích quốc gia, dân tộc, và xây dựng một Việt Nam xã hội chủ nghĩa vững mạnh.
Đường lối xây dựng nền ngoại giao toàn diện dựa trên ba kênh đối ngoại chủ lực: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân Ông Phạm Gia Khiêm, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, nhấn mạnh rằng cần triển khai đồng bộ ba trụ cột ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa, kết hợp với công tác bảo hộ công dân và hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài.
Hội nhập quốc tế và hội nhập kinh tế quốc t ế
Để thực hiện đường lối đối ngoại "chủ động và tích cực hội nhập quốc tế" theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, việc hiểu rõ ý nghĩa, bản chất và xu hướng của hội nhập quốc tế là rất quan trọng Điều này không chỉ giúp xác định các hệ lụy mà còn là cơ sở để xây dựng chiến lược, chính sách và các biện pháp cụ thể cho quá trình hội nhập của đất nước.
Là thuật ngữ có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài (tiếng Anh là
"Hội nhập quốc tế" (tiếng Pháp: "intégration internationale") là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực chính trị học và kinh tế quốc tế, xuất hiện từ giữa thế kỷ XX tại châu Âu Đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái niệm này Chúng tôi xin giới thiệu ba cách tiếp cận chính về hội nhập quốc tế theo quan điểm của TS Phạm Quốc Trụ.
Cách tiếp cận thứ nhất của chủ nghĩa liên bang coi hội nhập là một sản phẩm cuối cùng, không phải là một quá trình Sản phẩm này thể hiện qua việc hình thành một Nhà nước liên bang giống như Hoa Kỳ hoặc Thụy Sĩ Những người theo trường phái này chủ yếu tập trung vào các khía cạnh luật định và thể chế để đánh giá sự liên kết.
Cách tiếp cận thứ hai của Karl W Deutsch (1912 - 1992) coi hội nhập là sự kết nối giữa các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, đầu tư, thông tin, du lịch, di trú và văn hóa, từ đó hình thành các cộng đồng an ninh Ông phân loại cộng đồng an ninh thành hai loại: cộng đồng an ninh hợp nhất, như Hoa Kỳ, và cộng đồng an ninh đa nguyên, như Tây Âu Như vậy, hội nhập được xem là cả một quá trình và một sản phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba nhìn nhận hội nhập như một hiện tượng hoặc hành vi, trong đó các quốc gia mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác thông qua việc phân công lao động quốc tế một cách có chủ đích, dựa trên lợi thế của từng quốc gia và các mục tiêu mà họ theo đuổi.
Cách tiếp cận đầu tiên có những hạn chế rõ rệt, vì nó không xem xét hiện tượng hội nhập trong bối cảnh phát triển tổng thể, mà chỉ tập trung vào một khía cạnh cụ thể của nó.
Trong quá trình hội nhập toàn cầu hiện nay, không phải mọi sự hội nhập đều dẫn đến việc hình thành một Nhà nước liên bang Cách tiếp cận đầu tiên, mặc dù hữu ích trong việc phân tích trạng thái tĩnh cuối cùng, lại khó áp dụng cho sự đa dạng và phức tạp của quá trình hội nhập Ngược lại, cách tiếp cận thứ hai mang lại lợi thế khi xem xét hội nhập cả trong tiến trình phát triển lẫn trạng thái tĩnh, đồng thời cung cấp những nội dung cụ thể và thực tiễn hơn Cuối cùng, cách tiếp cận thứ ba chỉ tập trung vào hành vi của hiện tượng hội nhập mà không xem xét các khía cạnh thể chế, dẫn đến sự thiếu sót trong việc giải thích bản chất của quá trình này.
Trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam, các thuật ngữ “liên kết quốc tế” và “hội nhập quốc tế” thường được sử dụng thay thế cho nhau, cho thấy rằng chúng hầu như không có sự khác biệt về mặt ý nghĩa.
Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm
"Hội nhập quốc tế" đã nhận được sự đồng thuận cao trong giới học thuật và chính sách tại Việt Nam, với hai cách hiểu chính Cách hiểu hẹp xem "hội nhập quốc tế" như việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, trong khi cách hiểu rộng hơn coi đó là sự mở cửa và tham gia vào tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế, trái ngược với tình trạng cô lập Tuy nhiên, cả hai cách hiểu này đều không đầy đủ và thiếu chính xác, dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hội nhập và hợp tác quốc tế.
Để xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế cho Việt Nam trong giai đoạn mới, cần tiếp cận khái niệm "hội nhập quốc tế" như một quá trình xã hội toàn diện và liên tục hướng tới mục tiêu cụ thể Theo TS Phạm Quốc Trụ, hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia tăng cường gắn kết dựa trên việc chia sẻ lợi ích, mục tiêu, giá trị và tuân thủ các luật chơi chung trong các tổ chức quốc tế Khác với hợp tác quốc tế thông thường, hội nhập đòi hỏi sự chia sẻ và kỷ luật cao từ các chủ thể tham gia Quá trình này cũng hình thành và củng cố các định chế và tổ chức quốc tế mới, có thể là tổ chức liên chính phủ, tổ chức siêu quốc gia, hoặc tổ chức kết hợp giữa hai hình thức này Chủ thể chính của hội nhập quốc tế là các quốc gia, có đủ thẩm quyền và năng lực để tham gia vào các cam kết quốc tế, bên cạnh đó còn có các chủ thể khác góp phần vào quá trình này.
Hội nhập quốc tế hiện nay là một xu thế quan trọng, phản ánh sự phát triển của toàn cầu hóa Thời đại này không chỉ chi phối quan hệ quốc tế mà còn làm thay đổi cấu trúc hệ thống thế giới và các mối quan hệ giữa các chủ thể.
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu trong thời đại toàn cầu hóa, mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia Việc tham gia vào quá trình hội nhập không chỉ giúp các nước phát triển mà còn mở ra cơ hội hợp tác, trao đổi kinh tế, văn hóa và công nghệ Dưới đây là những lợi ích chủ yếu mà các quốc gia có thể tận dụng từ hội nhập quốc tế.
• Những lợi ích của hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế không chỉ mở rộng thị trường mà còn thúc đẩy thương mại và các mối quan hệ kinh tế toàn cầu, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Hội nhập kinh tế thúc đẩy chuyên dịch cơ cấu kinh tế và cải thiện môi trường đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, sản phẩm và doanh nghiệp Điều này cũng góp phần tăng cường khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế.
Hội nhập quốc tế góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực và phát triển nền khoa học công nghệ quốc gia thông qua hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các quốc gia khác Điều này cũng giúp Việt Nam tiếp thu công nghệ mới từ đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển.
Thứ tư, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Đối ngoại nhân dân hay Ngoại giao nhân dân
Ngoại giao nhân dân là hình thức quan hệ đối ngoại do tổ chức hoặc cá nhân không thuộc chính phủ thực hiện, với nhiều hoạt động phong phú như gặp gỡ, thăm hữu nghị, hội thảo và hội nghị quốc tế Trong những thập kỷ gần đây, ngoại giao nhân dân đã phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy hiểu biết và hợp tác giữa các dân tộc, đồng thời khuyến khích dư luận toàn cầu ủng hộ hòa bình, giảm căng thẳng và giải trừ quân bị Ngoại giao nhân dân thường là bước khởi đầu tạo điều kiện cho việc thiết lập và phát triển quan hệ chính thức giữa các quốc gia.
Trong bối cảnh hiện tại, ngoại giao nhân dân được hiểu là một khái niệm mở, cho phép mọi tổ chức và cá nhân tham gia vào hoạt động này.
Lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh rằng ngoại giao nhân dân là hoạt động vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách hòa bình, hữu nghị và hợp tác quốc tế Do đó, ngoại giao nhân dân đóng vai trò quan trọng trong công tác đối ngoại, phối hợp chặt chẽ với các hoạt động đối ngoại của Đảng và ngoại giao Nhà nước.
Vào thế kỷ XV - XVI, lịch sử kinh tế - xã hội thế giới chứng kiến sự xuất hiện của toàn cầu hóa khi các nước tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ nhờ vào tiến bộ khoa học kỹ thuật Nhu cầu khai thác nguyên liệu, nhân công và thị trường tiêu thụ đã thúc đẩy các quốc gia phương Tây xâm chiếm các châu lục, dẫn đến nhiều cuộc chiến tranh và xung đột, đặc biệt là hai cuộc Đại thế chiến Hậu quả của những cuộc chiến này để lại di chứng lâu dài cho nhiều thế hệ, ảnh hưởng đến cả các quốc gia tham chiến và nạn nhân Trong khi đó, các nước phương Đông lại áp dụng chính sách “bế quan tỏa cảng”, từ chối đổi mới và giao thương quốc tế, khiến họ lùi lại trong xu thế toàn cầu hóa, cuối cùng phải chịu sự áp bức của chủ nghĩa tư bản và thực dân trong suốt nhiều thế kỷ.
Sự thành lập Liên Hiệp Quốc vào năm 1945 đã khuyến khích các quốc gia giải quyết mâu thuẫn lợi ích thông qua thương thuyết và thúc đẩy ngoại giao quốc tế, dẫn đến sự hình thành của các tổ chức kinh tế xã hội như WTO và UNESCO Tuy nhiên, cuộc "Chiến tranh Lạnh" giữa hai hệ thống chính trị Tư bản chủ nghĩa, do Mỹ lãnh đạo, và Xã hội chủ nghĩa, do Liên Xô đứng đầu, đã cản trở tiến trình này trong nửa sau thế kỷ XX.
Từ khi hình thành quốc gia, các Nhà nước Phong kiến Việt Nam đã thực hiện chính sách ngoại giao dựa trên tinh thần hữu nghị và hợp tác Tư tưởng ngoại giao hòa bình và hòa hiếu là truyền thống nhân văn của Việt Nam, do đó, trong việc giải quyết quan hệ với các láng giềng, cha ông ta thường sử dụng chiến lược "biện sĩ bàn hòa", cử sứ giả để thiết lập mối quan hệ ngay cả khi đang ở thế mạnh.
Phò tá Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã sử dụng ngoại giao như một công cụ chiến lược trong cuộc đấu tranh, thể hiện qua việc dâng Bình Ngô sách Họ áp dụng binh pháp Phạt giao, linh hoạt giữa lúc "yếu" và "mạnh", quyết định khi nào nên đánh và khi nào nên đàm phán Hành động "đánh mạnh vào lòng địch" được minh chứng qua việc viết thư chiêu hàng Vương Thông và tha cho mười vạn hàng binh, nhằm khẳng định chính nghĩa của cuộc đấu tranh dân tộc, góp phần vào việc duy trì hòa bình giữa hai quốc gia và ngăn chặn chiến tranh kéo dài.
- Sửa niềm hòa hiếu hai nước, tắt muôn đời chiến tranh” [3, 654 - 655]
Chính sách đối ngoại sai lầm của triều Nguyễn trước sự xâm lược của thực dân Pháp vào nửa cuối thế kỷ XVIII đã dẫn đến tình trạng nước mất nhà tan, kéo dài suốt một thế kỷ cho Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp giải phóng dân tộc đã xác định ngoại giao là một mặt trận quan trọng, dựa trên đường lối chiến tranh nhân dân và nhấn mạnh vai trò của đối ngoại nhân dân Điều này thể hiện sự sáng tạo phi thường, dựa trên lý luận duy vật khoa học Mác - Lênin về phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh giai cấp và Nhà nước, kết hợp với bài học truyền thống trong lịch sử đánh giặc của tổ tiên và thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài và Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Việt Nam, đã khởi đầu tư tưởng và quan điểm ngoại giao cách mạng Tư tưởng ngoại giao của Người chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành và phát triển gắn liền với cuộc đời hoạt động của Người qua các giai đoạn lịch sử đặc biệt Qua việc tiếp cận Luận cương Lê nin về các vấn đề dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ mối quan hệ giữa dân tộc và thời đại Ngoại giao Việt Nam thời kỳ Hồ Chí Minh đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử ngoại giao dân tộc, trở thành một mặt trận được triển khai rộng rãi trên toàn thế giới và ngay tại hậu phương của đối phương.
Xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và ngoại giao Qua “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp tại Đông Dương, khởi đầu cho cuộc đấu tranh ngoại giao của người Việt Nam trong giai đoạn này.
Vào những năm 1919 - 1920, khi bắt đầu hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội những người Việt yêu nước và gia nhập đảng Xã hội Ông tham gia vào việc thành lập đảng Cộng sản Pháp, công nhận Quốc tế Cộng sản III, và lập Hội liên hiệp thuộc địa Ông cũng đã có những chuyến đi tới Nga, Trung Quốc và các nước láng giềng của Việt Nam, tất cả nhằm mục đích đối ngoại Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh rằng để cách mạng thành công, cần phân biệt rõ bạn và thù, thực hiện thêm bạn bè và bớt kẻ thù, khẳng định rằng mọi người yêu nước và tiến bộ đều là đồng minh của ta.
Hồ Chí Minh đã chú trọng đến việc thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm tập hợp các tầng lớp nhân dân chống lại ngoại xâm khi đất nước mất độc lập Mặt trận ra đời đại diện cho toàn thể nhân dân, thực hiện đối thoại với các thế lực ngoại bang và khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc, trong bối cảnh cuộc đấu tranh cam go với thực dân Pháp và đế quốc.
Hồ Chủ tịch, trong bối cảnh Mỹ là kẻ thù xâm lược, vẫn kiên trì kêu gọi hợp tác hòa bình thông qua những bức thư và giao tiếp với nhân dân hai nước Ông luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đồng tình ủng hộ từ nhân dân tiến bộ thế giới và sự chi viện từ các nước anh em Ông Vũ Xuân Hồng, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam (nhiệm kỳ 2008 - 2013), nhấn mạnh rằng đối ngoại nhân dân Việt Nam là một sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng vào công tác đối ngoại chung của cách mạng Việt Nam Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác này đã tạo ra mặt trận đoàn kết rộng rãi chưa từng có, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, đóng góp lớn vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Hồ Chủ tịch là một nhà ngoại giao nhân dân xuất sắc, kế thừa và phát huy tư tưởng của Nguyễn Trãi, nhấn mạnh triết lý “Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất”.
Vài nét về Liên hiệp Các tổ chức Hữu nghị Việt N am 27 Tiểu kết chương 1
Tiếng Việt: Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam.
Tên viết tát: Liên hiệp Hữu nghị (LHHN)
Tiếng Anh: Vietnam Union of Friendship Organizations.
Tên tiếng Anh viết tắt: VUFO
Trụ sở : 105A Quán Thánh, Hà Nội
Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội có nhiệm vụ vận động và tập hợp các tầng lớp nhân dân trong đấu tranh cho hòa bình và phát triển Tổ chức này thúc đẩy quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với các nước trên thế giới cũng như các tổ chức phi chính phủ quốc tế Ngoài ra, Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam còn là thành viên của Mặt trận.
Ngày 10/01/1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng Khóa VII quyết định tách Liên hiệp các tổ chức Hòa bình, Đoàn kết, Hữu nghị với nhân dân các nước ra khỏi Ban Đối ngoại Trung ương, chuyển thành tổ chức chính trị - xã hội độc lập Đến 27/7/1993, Chỉ thị 27-CT/TW được ban hành, xác định nhiệm vụ và tổ chức của Liên hiệp, trong đó nhấn mạnh vai trò của Liên hiệp là tổ chức chính trị - xã hội chuyên trách về đối ngoại nhân dân trong các lĩnh vực hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và vận động viện trợ Liên hiệp hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Chính phủ, góp phần hỗ trợ công tác đối ngoại của Đảng và ngoại giao Nhà nước Chỉ thị 27-CT/TW đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp ủy đảng, cải thiện phương thức, nội dung hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy cán bộ.
Chức năng, nhiệm vụ của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam cũng tiếp tục được xác định trong Điều lệ của Liên hiệp:
1 Tiến hành các hoạt động nhằm: a Tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, củng cố và phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị, cồ vũ và hỗ trợ sự hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước. b Tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam. c ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước, góp phân vào cuộc đấu tranh chung vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội.
2 Làm đầu mối cho công tác phi chính phủ nước ngoài, phối hợp vận động, điều phối viện trợ của các tồ chức hoà bình, đoàn kết, hữu nghị, các tổ chức phi chính phủ và các nhân nước ngoài nhàm góp phần vào công cuộc phát triến kinh tế - xã hội và cứu trợ nhân đạo.
3 Tham gia nghiên cứu các vấn đề quốc tế và tổ chức nghiên cứu về các đối tác của Liên hiệp làm cơ sở cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Liên hiệp các tô chức Hữu nghị Việt Nam và có các kiến nghị với Nhà nước và các tổ chức liên quan.
4 Hướng dẫn các tổ chức thành viên trong hoạt động hoà bình, đoàn kết, hữu nghị, hợp tác quốc tế và vận động, điều phối viện trợ phi chính phủ.
Liên hiệp cần gắn hoạt động của mình với việc nâng cao ý thức quyền và nghĩa vụ của các tầng lớp nhân dân trong việc tham gia thực hiện chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay, Liên hiệp có khoảng 113 cán bộ chuyên trách trong công tác đối ngoại nhân dân, với 57 Hội trung ương và 37 Liên hiệp Hữu nghị tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Tổ chức này sở hữu mạng lưới bạn bè quốc tế rộng khắp các châu lục và đóng vai trò quan trọng trong việc vận động viện trợ phi chính phủ từ hơn 900 tổ chức, đồng thời cung cấp nhiều sản phẩm thông tin đối ngoại.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo phát huy mọi nguồn lực của đất nước, trong đó ngoại giao, đặc biệt là ngoại giao nhân dân, đóng vai trò quan trọng Hoạt động của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam góp phần vào thành tựu ngoại giao quốc gia, khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm và đường lối ngoại giao qua các thời kỳ Để thực hiện công cuộc đổi mới theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Chỉ thị 04 của Ban Bí thư, Liên hiệp và các tổ chức thành viên cần chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả, nhằm nâng cao năng lực và tăng cường quan hệ hữu nghị, thúc đẩy hợp tác với bạn bè quốc tế.
Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam và các thành viên đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ Tổ quốc Họ góp phần nâng cao hiểu biết về quốc tế và kỹ năng hội nhập cho nhân dân Việt Nam, đồng thời khẳng định tiếng nói của đất nước trong các vấn đề toàn cầu.
Trong Chương 1, chúng tôi đã trình bày các thuật ngữ quan trọng liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm khái niệm "ngoại giao", "đường lối đối ngoại", "hội nhập quốc tế", "hội nhập kinh tế quốc tế" và "đối ngoại nhân dân" Những khái niệm này được công nhận và sử dụng rộng rãi trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, cũng như trong các văn bản của Nhà nước và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Chúng tôi sẽ trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối ngoại giao của Đảng và Nhà nước, bao gồm quan điểm Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ xem xét tính truyền thống và thực tiễn lịch sử của công tác ngoại giao, đặc biệt là vai trò của ngoại giao nhân dân ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, với trọng tâm là giai đoạn hiện nay.
Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội quan trọng, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tổ chức này được giao nhiệm vụ chủ đạo trong việc thực hiện các hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế.
Chúng tôi hy vọng rằng những nội dung đã trình bày sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về bối cảnh hoạt động ngoại giao nhân dân tại Việt Nam Điều này sẽ là nền tảng quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu về Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh và vai trò của nó trong công tác ngoại giao nhân dân, nội dung sẽ được khai thác sâu hơn trong các chương 2 và 3 tiếp theo.
CÔNG TÁC NGOẠI GIAO NHÂN DÂN CỦA LIÊN HIỆP CÁC TỎ CHỨC HỬU NGHỊ THÀNH PHÓ HÒ CHÍ MINH
2.1 Giới thiệu về Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1 Lịch sử hình thành Liên hiệp các tố chức Hữu nghị Thành phố
Tiếng Việt: Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh.
Tên viết tắt: Liên hiệp (LH).
Tên giao dịch tiếng Anh: The Ho Chi Minh City Union of Friendship Organizations.
Tên tiếng Anh viết tắt: HUFO.
Trụ sở: 31 Lê Duẩn, phường Bến Nghé, quận 1, Tp Hồ Chí Minh
Sau khi nước nhà thống nhất, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến công tác dân vận quốc tế, theo tư tưởng của Bác Hồ Năm 1977, Thành ủy và ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập ủy ban Đoàn kết và Hữu nghị với nhân dân các nước, trực thuộc ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Mặc dù nhân sự của ủy ban lúc bấy giờ ít, nhưng đều là cán bộ kỳ cựu từ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Bộ ngoại giao Ông Nguyễn Hộ giữ chức Chủ tịch, trong khi cựu Đại sứ Phạm Văn Ba là Phó Chủ tịch thường trực.
Vai trò của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố
Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và chính sách mở rộng, đa phương hóa quan hệ quốc tế của Thành phố Hồ Chí Minh đã được khẳng định và nâng cao Thành ủy và ủy ban Nhân dân Thành phố đã thực hiện phương châm “muốn là bạn của tất cả các nước”, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, qua đó lãnh đạo và chỉ đạo hiệu quả các chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Điều này đã góp phần mở rộng quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác phát triển giữa nhân dân Thành phố với các quốc gia trên thế giới.
Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh, là thành viên của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước trong hơn 30 năm qua Sự mạnh mẽ của khối đại đoàn kết dân tộc và sự ủng hộ quốc tế đã tạo nên sức mạnh vô địch Đặc điểm nổi bật của Liên hiệp là sự chủ động trong thực hiện nhiệm vụ, kết hợp lý luận và kinh nghiệm thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi có bối cảnh chính trị - xã hội đa dạng Nhiều lãnh đạo, cán bộ của Liên hiệp đã có quá trình hoạt động từ những ngày đầu của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam, giúp họ có bản lĩnh chính trị vững vàng và khả năng ứng phó kịp thời Hiện nay, Liên hiệp tiếp tục thực hiện các hoạt động ngoại giao nhân dân theo quy chế hoạt động của tổ chức thành viên.
Tăng cường sự hiểu biết và phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các nước là mục tiêu quan trọng Điều này bao gồm việc cổ vũ và hỗ trợ hợp tác, giao lưu trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật.
Để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, đặc biệt là Thành Phố, cần tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi từ nhân dân thế giới Sự hỗ trợ này không chỉ giúp nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Hồ Chí Minh nói riêng.
Chúng tôi ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước, đồng thời đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, phát triển, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội Chúng tôi cũng là đầu mối phối hợp vận động và điều phối viện trợ từ các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, cũng như các tổ chức phi chính phủ và cá nhân nước ngoài, nhằm thực hiện các chương trình và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng như viện trợ nhân đạo cho thành phố.
Nghiên cứu và tư vấn cho Thành Ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước, cũng như việc quản lý hoạt động viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại thành phố.
Liên hiệp tập trung vào hai lĩnh vực chính: hoạt động đoàn kết hữu nghị và liên kết các tổ chức phi chính phủ.
* về hoạt động đoàn kết - hữu nghị:
Trong quá trình triển khai hoạt động, Liên hiệp chú trọng cải tiến lề lối làm việc và đổi mới phương thức, nhằm phong phú hóa nội dung và gắn kết các hoạt động đoàn kết hữu nghị với chương trình kinh tế - xã hội, xúc tiến thương mại và hợp tác đầu tư của Thành phố Liên hiệp không ngừng phát huy nội lực và tranh thủ sự hỗ trợ từ các cơ quan, đoàn thể của Thành phố, Trung ương và các địa phương bạn, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao Nhờ đó, Liên hiệp đã đạt được nhiều thành tích trong hoạt động ngoại giao nhân dân, góp phần củng cố và mở rộng quan hệ quốc tế của nhân dân thành phố.
Liên hiệp tổ chức các đoàn thăm hữu nghị nhằm mở rộng quan hệ hợp tác và vận động viện trợ phi chính phủ cho Thành phố Tham gia vào các hội nghị và diễn đàn quốc tế tại Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Thái Lan, Bỉ, và Pháp, Liên hiệp đã nâng cao sự hiện diện của mình Đặc biệt, vào năm 2005, Liên hiệp đã tổ chức đoàn khảo sát tại Đài Loan cho các tỉnh Tây Ninh, Đồng Tháp, Cần Thơ và Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố, nhằm tìm hiểu thực trạng của các cô gái Việt Nam làm dâu tại đây.
Hầu hết các chuyến đi đều hướng tới việc thu hút sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác từ bạn bè quốc tế, nhằm thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển thành phố cũng như đất nước.
Hàng năm, Liên hiệp và các tổ chức thành viên phối hợp tổ chức hơn 30 cuộc mít tinh kỷ niệm ngày quốc khánh và ngày thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước có cơ quan đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh Ngoài ra, các sự kiện và ngày kỷ niệm quốc tế như Cách mạng tháng 10 Nga và Chiến tranh cũng được tổ chức, góp phần tăng cường giao lưu văn hóa và ngoại giao.
39 thắng Phát xít, thành lập Phong trào hòa bình thế giới, ngày thành lập Liên hiệp quốc, ASEAN, Quốc tế Phụ nữ
Liên hiệp tổ chức nhiều hoạt động ngoại giao nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh, không chỉ giới hạn trong các cuộc họp mặt và mít tinh chính trị - ngoại giao, mà còn phát triển thêm các hình thức phong phú và đa dạng nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn.
Mối quan hệ giữa Liên hiệp và các tổ chức thành viên với các cơ quan ngoại giao, tổ chức kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục nước ngoài cùng các cơ quan trong nước tại Thành phố ngày càng được củng cố và phát triển mạnh mẽ Quan hệ này không chỉ được duy trì thường xuyên mà còn có nhiều hoạt động hiệu quả, góp phần nâng cao sự hợp tác và phát triển.
Tổ chức thử nghiệm mô hình hoạt động như “ngày”, “tuần lễ” và “sự kiện” nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hóa, thể dục thể thao, và khoa học kỹ thuật Chương trình trao đổi công dân Việt - Nhật đã mang lại những kết quả tích cực, góp phần tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa hai quốc gia.
Liên hiệp đang tích cực tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, triển lãm và tọa đàm nhằm tăng cường hiểu biết giữa nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các quốc gia khác Đồng thời, nhiệm vụ trọng tâm trong công tác đối ngoại là phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thành phố, điển hình như cuộc gặp gỡ doanh nghiệp Việt - Nga, tập trung vào tiềm năng và cơ hội mới cho Thành phố Hồ Chí Minh trong quan hệ với Nga.
Thành tựu đạt được trong công tác ngoại giao nhân d â n
Đồng chí Trương Tấn Sang, ủy viên Bộ Chính trị và Chủ tịch nước, đã nhấn mạnh rằng công tác đối ngoại nhân dân đóng góp tích cực vào việc duy trì môi trường hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới Ông cho rằng sự kết hợp giữa đối ngoại nhân dân, đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước đã tạo thành sức mạnh tổng hợp cho công tác đối ngoại của đất nước.
Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh đã có những đóng góp kiên trì và nỗ lực đáng kể trong thành tích chung của thành phố.
Hơn 20 năm hoạt động Liên hiệp đã đón tiếp hàng trăm đoàn khách hữu nghị nhân dân với hàng ngàn lượt khách từ nhiều nước trên thế giới đến thăm thành phố Liên hiệp đã cùng các Hội thành viên phối hợp các cơ quan, đơn vị hữu quan của thành phố tổ chức nhiều hoạt động nhằm tiếp tục củng cố, tăng cường quan hệ với các nước láng giềng, với các đối tác truyền thống, các nước trong khu vực, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, giao lưu hợp tác với các đối tác mới, trên cơ sở đó xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác bền vững giữa ta và bạn bè quốc tế.
Liên hiệp và các Hội thành viên đã phối hợp hiệu quả với các cơ quan đối ngoại, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể Thành phố, các trường đại học và Tổng Lãnh sự quán để tổ chức các sự kiện chính trị - đối ngoại, giao lưu kinh tế, văn hóa, thể thao, du lịch và từ thiện - xã hội Năm 2011, Liên hiệp đã tiếp đón 210 đoàn với 2088 khách từ 19 quốc gia, bao gồm Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Venezuela, Singapore, Malaysia, Cuba, Chile và Iran, nhằm tăng cường giao lưu văn hóa và hợp tác kinh tế Đồng thời, phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức 36 đoàn đại biểu sang 11 nước Châu Á và Châu Âu tham dự các Diễn đàn nhân dân khu vực và quốc tế, mở rộng quan hệ và hoạt động Nhiều tổ chức nhân dân và tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong thành phố cũng đã tích cực tham gia vào các tổ chức theo cơ chế đa phương.
Liên hiệp và các Hội thành viên khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đồng thời thể hiện vai trò là bạn, đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế Qua các sự kiện chính trị đối ngoại và giao lưu quốc tế, chúng ta mạnh mẽ ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc và công bằng xã hội Đồng thời, chúng tôi giới thiệu với bạn bè quốc tế về tiềm năng hợp tác đầu tư và tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh, thể hiện thiện chí đoàn kết và hợp tác phát triển Chúng tôi cũng gửi lời cảm ơn đến các bạn bè quốc tế đã hỗ trợ Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập và tiếp tục đồng hành trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước.
Các hoạt động trên đã giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn và cảm mến Thành phố Hồ Chí Minh cũng như Việt Nam, từ đó thúc đẩy sự hợp tác và hỗ trợ cho thành phố và cả nước trên nhiều lĩnh vực Điều này phù hợp với khẳng định của Đảng trong Văn kiện Đại hội lần thứ XI rằng “quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước.”
Song song với hoạt động hữu nghị, công tác phi chính phủ nước ngoài cũng có những phát triển mới.
Liên hiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối và giới thiệu các đối tác Việt Nam cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài Họ hỗ trợ các tổ chức này và đối tác Việt Nam trong việc xây dựng dự án, thực hiện thủ tục phê duyệt và phối hợp với các cơ quan chức năng để đảm bảo quy trình xin phê duyệt diễn ra suôn sẻ Hàng năm, thành phố nhận khoảng 6 - 7 triệu USD từ viện trợ phi chính phủ nước ngoài, góp phần vào các mục tiêu giảm nghèo và phát triển xã hội Trung bình, thành phố tiếp nhận từ 15 - 16 triệu USD mỗi năm dưới dạng dự án, quà tặng và viện trợ nhỏ lẻ, với hầu hết các dự án được giải ngân đúng tiến độ và thực hiện hiệu quả.
Công tác phi chính phủ nước ngoài của Liên hiệp và các ngành, các cấp đã thúc đẩy công tác đối ngoại nhân dân và củng cố quan hệ song phương giữa các thành viên Ban Chấp hành và Ban Thường vụ tuân thủ các quy định và chương trình, đồng thời huy động sự tham gia của các lực lượng xã hội vào hoạt động này Sự đoàn kết và thống nhất trong lãnh đạo cùng với việc phát huy dân chủ đã tạo điều kiện cho cán bộ, công chức và người lao động nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2.4 Những hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện công tác ngoại giao nhân dân
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động của Liên hiệp cũng còn những tồn tại, hạn chế:
Quan hệ đoàn kết và hữu nghị đã được mở rộng, nhưng sự gắn kết và thúc đẩy giao lưu, hợp tác trong lĩnh vực kinh tế và khoa học kỹ thuật vẫn còn hạn chế Công tác nghiên cứu và tham mưu về các vấn đề đối ngoại cho Lãnh đạo thành phố chưa được thực hiện hiệu quả Sự phối hợp giữa Liên hiệp và các ngành chức năng trong việc vận động, quản lý viện trợ và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài còn thiếu sự đồng bộ và liên tục Chưa có nghiên cứu sâu để hỗ trợ Ủy ban nhân dân thành phố định hướng viện trợ phi chính phủ nước ngoài theo các mục tiêu phát triển ưu tiên.
Một số hội hoạt động kém hiệu quả vẫn chưa được củng cố tổ chức, dẫn đến việc nhiều thiết chế quốc tế quan trọng bị bỏ trống Mạng lưới đối tác còn mỏng, và vẫn tồn tại không ít hoạt động đối ngoại mang tính hình thức.
4- Nguyên nhân hạn chế, yếu kém:
Nhân lực tại cơ quan Thường trực Liên hiệp chưa được kiện toàn đầy đủ, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Liên hiệp cũng như hỗ trợ các hội Nhiều hội cũng chưa kịp thời đổi mới để thích ứng với tình hình mới Hơn nữa, cơ chế và chính sách hiện tại chưa đủ động viên và khuyến khích hoạt động của Liên hiệp và các hội.
Nhận thức về vai trò và vị trí của hoạt động ngoại giao nhân dân trong các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể còn hạn chế, dẫn đến việc chỉ đạo và phối hợp trong hoạt động này thiếu tính đồng bộ và hiệu quả trên toàn địa bàn thành phố.
Trong chương 2, chúng tôi đã trình bày lịch sử hình thành, cơ cấu tổ chức và các hoạt động đa dạng của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm thể hiện vai trò và chức năng của tổ chức này Qua đó, chúng tôi đã đánh giá vị trí và vai trò của Liên hiệp, cùng với những thành tựu quan trọng và những hạn chế khách quan trong quá trình phát triển.
Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh đã ra đời kịp thời, đáp ứng yêu cầu lịch sử của công tác đối ngoại và ngoại giao nhân dân trong hơn 30 năm qua Từ khi thành lập, Liên hiệp đã hoàn thành nhiệm vụ với kết quả ngày càng cao, kế thừa và phát huy những truyền thống, kinh nghiệm quý báu về ngoại giao nhân dân của Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh.
Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh đã không ngừng phát triển và trưởng thành, khẳng định vị trí trách nhiệm mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Thành phố giao phó.
Những hạn chế còn tồn tại tronơ việc thực hiện công tác ngoại giao nhân dân
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC NGOẠI GIAO NHÂN DÂN CỦA LIÊN HIỆP CÁC TỎ CHỨC
HỮU NGHỊ THÀNH PHÓ HÒ CHÍ MINH TRONG
GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1 Mục tiêu và định hướng nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân của Liên hiệp
Để nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân, Liên hiệp cần tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm sau đây, dựa trên phân tích vai trò, thành tựu và hạn chế đã được đánh giá trong các chương 1 và 2.
- Tiếp tục khẳng định vị trí vai trò thành viên trong lực lượng công tác ngoại giao nhân dân của Thành phố Hồ Chí Minh.
Nâng cao năng lực tổ chức và kỹ năng chuyên môn là yếu tố quan trọng để phát triển quan hệ và hoạt động ngoại giao nhân dân, đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh hội nhập và phát triển bền vững của Thành phố.
Để đạt được mục tiêu trọng tâm, Liên hiệp cần áp dụng những bài học kinh nghiệm quý báu đã tích lũy trong quá trình hoạt động trước đây.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân, cần trang bị nhận thức đúng đắn về vai trò của nó trong hệ thống chính trị, nhằm tạo sự đồng thuận trong thực hiện Đồng thời, việc xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan đối ngoại và các đoàn thể, ngành, cấp là rất quan trọng.
Để hoạt động của Liên hiệp và các Hội thành viên đạt hiệu quả cao, cần tận dụng sự lãnh đạo và chỉ đạo từ lãnh đạo Thành phố, cùng với sự hỗ trợ và hợp tác của các sở ngành, đoàn thể, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, các trường đại học và đối tác nước ngoài.
Củng cố tổ chức bộ máy và nhân sự chủ chốt của Liên hiệp và các Hội là yếu tố quan trọng cho hoạt động hiệu quả Việc xây dựng bộ máy phù hợp để thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới là yếu tố quyết định cho thành công trong công tác đối ngoại nhân dân.
Sự tự giác và tự nguyện tham gia tích cực của các thành viên trong Liên hiệp và các Hội là yếu tố quyết định cho thành công của tổ chức Bên cạnh đó, việc giải quyết kịp thời và phù hợp các cơ chế, chính sách, chế độ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động phát triển ổn định của Liên hiệp và các Hội.
Liên hiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng toàn diện các hoạt động công tác, đồng thời tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
- Phát huy chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong tinh thần thống nhất chỉ đạo, quản lý và phối hợp.
- Tiếp tục tìm tòi, đổi mới phương thức hoạt động phong phú, đa dạng, chuyên nghiệp nhưng xã hội hóa hơn phù hợp nhiệm vụ hội nhập.
Sở dĩ đề ra mục tiêu, định hướng như trên vì:
Công tác ngoại giao nhân dân được Đảng xác định là nhiệm vụ chung của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn dân, với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò nòng cốt Trong đó, Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Thành phố và Liên hiệp cả nước giữ vai trò đầu mối quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
Đối ngoại nhân dân là nhiệm vụ quan trọng nhằm duy trì niềm tin của các quốc gia và tổ chức quốc tế ủng hộ Việt Nam, đồng thời cần thâm nhập và vận động những đối tác chưa hiểu rõ về đất nước Đối với các tổ chức người Việt ở nước ngoài chống đối, cần vừa đấu tranh vừa tuyên truyền để không làm họ xa rời Tổ quốc Hoạt động này cũng bao gồm việc làm sáng tỏ các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, với nhiều động thái từ các cường quốc về vấn đề kinh tế - xã hội, đặc biệt là ở khu vực và Biển Đông Những biến động này đã tác động đến quan hệ của các nước với Việt Nam, đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình nội bộ đất nước và quan hệ đối ngoại.
Việc vận động sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế và phi chính phủ nước ngoài là rất quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập quốc tế Sự giúp đỡ này đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giúp đất nước tiến gần hơn đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh.
Theo Thông tri số 11-TT/TU ngày 24/10/2011, Ban Thường vụ Thành ủy TP Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng đoàn Mặt trận Tổ Quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố, cùng với Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị và Ủy ban về Người Việt Nam ở nước ngoài, thực hiện hai công tác chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới.
1- Chỉ đạo xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện Chỉ thị số 04- CT/TW của Ban Bí thư và Thông tri số 11-TT/TƯ của Thành ủy nói trên, theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình, tiến hành đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, lực lượng bán chuyên trách, cộng tác viên công tác ngoại giao nhân dân, qua đó kiện toàn, củng cố, bố trí cán bộ và phát triền lực lượng bán chuyên trách, lực lượng cộng tác viên gồm những người có quá trình, kinh nghiệm và uy tín trong hoạt động đối ngoại, vận động các nhân sĩ, trí thức, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc, các chức sắc tôn giáo tham gia các hoạt động đối ngoại nhân dân, tạo sự chuyển biến thực sự về công tác này nhằm đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới.
2- Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia các hoạt động ngoại giao nhân dân trên địa bàn thành phố, nghiên cứu đổi mới nội dung, phương thức, da dạng hóa lĩnh vực hoạt động, loại hình hoạt động, bày tỏ thiện chí đoàn kết, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển của nhân dân thành phố với nhân dân thế giới, tập hợp các tổ chức xã hội,
Các giải pháp cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân của Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị giai đoạn hội nhập quốc t ế
1 Ban Bí thư Trung ương Đảng Khóa VII ngày 27/7/1993, Chỉ thị 27- CT/TW về nhiệm vụ và tổ chức của Liên hiệp các tô chức Hữu nghị Việt Nam.
2 Ban Bí thư Trung ương Đảng Khóa X ngày 02/12/2008, Chỉ thị 28 -CT/TW về việc tiêp tục đôi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các tô chức hữu nghị Việt Nam.
3 Nguyễn Lương Bích (1975), Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
4 Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện tại Hội nghị ngoại giao ngày 14 tháng giêng 1964 Tài liệu lưu trữ của Bộ Ngoại giao Việt Nam Dần theo Bùi Bá Bình, Công tác đối ngoại nhân dân và vai trò đầu mối phối hợp của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh, Kỷ yếu 20 nâm Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh 1989 - 2009, Nxb Văn hóa - Dân tộc, 2009, tr 38.
5 Nguyễn Thị Bình (2012), Gia đỉnh bạn bè và đắt nước - Hồi ký, Nhà xuất bản Tri thức.
6 Bộ Chính trị Khóa XI ngày 06/07/2011, Chỉ thị 04 -CT/TW về tiếp tục đối mới và nâng cao hiệu quả công tác đoi ngoại nhãn dãn trong tình hình mới.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12 (1951), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Vãn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam, (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khóa VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X I, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11 Hội đồng chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.