TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Khái lƣợc
Chương tổng quan tóm tắt các nội dung chính của luận văn, bao gồm sự cần thiết và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu, mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Ngoài ra, chương cũng trình bày phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, lược khảo tài liệu liên quan đã được công bố, cùng với những đề xuất và kiến nghị trong phạm vi nghiên cứu Qua đó, độc giả có thể hình dung rõ ràng nội hàm của công trình nghiên cứu.
Sự cần thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, vai trò của đầu tư công và đầu tư tư nhân trong phát triển kinh tế đã trở thành chủ đề tranh luận sôi nổi Nhiều nghiên cứu cho thấy hai loại hình đầu tư này có tác động khác nhau đến tăng trưởng kinh tế Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có thể làm tăng năng suất vốn tư nhân và thúc đẩy tăng trưởng Tuy nhiên, đầu tư công cũng có thể "chèn lấn" đầu tư tư nhân, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng do cạnh tranh về nguồn lực khan hiếm Do đó, tăng trưởng kinh tế không chỉ phụ thuộc vào tổng mức đầu tư mà còn vào sự phân chia hợp lý giữa đầu tư công và tư nhân, điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chính sách đầu tư.
Nghiên cứu của Bukhari et al (2003), Bukhari et al (2007) và Haque (2013) chỉ ra rằng đầu tư công có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Tương tự, các nghiên cứu của Cruz và Teixeira (1999), Gjini và Kukeli (2012), cũng như Dreger và Reimers (2014) cũng xác nhận rằng đầu tư công thúc đẩy đầu tư tư nhân Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho thấy những kết quả trái ngược.
Đầu tư công có thể không mang lại tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, thậm chí còn có thể gây ra những hệ quả tiêu cực Nghiên cứu của Ghani và Din chỉ ra rằng đầu tư công không chỉ không thúc đẩy tăng trưởng mà còn làm giảm sức hấp dẫn của đầu tư tư nhân.
Nghiên cứu về tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là rất cần thiết, bởi vùng này đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt là sản xuất lúa gạo, trái cây và thủy sản Mặc dù có nhiều nghiên cứu về đầu tư công tại Việt Nam, nhưng chủ yếu là định tính và thiếu thực nghiệm, dẫn đến kết quả không thống nhất về ảnh hưởng của vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế Từ năm 2001 đến 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của ĐBSCL đạt 11,7%/năm, nhưng giai đoạn 2011-2015 chỉ còn 8,55%/năm, cho thấy sự chậm lại trong phát triển Năm 2017, tăng trưởng kinh tế đạt 7,39%, vẫn thấp hơn so với giai đoạn trước Tổng vốn đầu tư phát triển từ 2000 đến 2018 đạt trên 2.508 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn Kết quả phân tích định lượng sẽ giúp đưa ra khuyến nghị và chính sách phát triển kinh tế cho vùng trong tương lai.
13 tăng trưởng kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích định lượng cho thấy đầu tư công có tác động tích cực đến đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long giai đoạn 2000 - 2018 Đầu tư công không chỉ thúc đẩy sự phát triển hạ tầng mà còn tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân Để phát huy tác động này, cần đề xuất các giải pháp như cải thiện chính sách hỗ trợ đầu tư, tăng cường hợp tác công tư và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp tư nhân Những giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững cho vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu này nhằm làm rõ tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, cũng như ảnh hưởng của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của khu vực này Việc phân tích mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển kinh tế bền vững tại Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Giải pháp nào để đầu tƣ công có tác động thúc đẩy đầu tƣ tƣ nhân và tăng trưởng kinh tế tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long?
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Tác động của đầu tƣ công đến đầu tƣ tƣ nhân và tăng trưởng kinh tế tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Luận văn nghiên cứu tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn 2000 - 2018.
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu ở 13 tỉnh vùng ĐBSCL của Việt Nam với bộ dữ liệu dạng bảng cho các tỉnh.
Nguồn dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
6.1 Nguồn dữ liệu: Đề tài sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp: thông qua thu thâp dữ liệu từ các báo cáo của Tổng cục thống kê, kết hợp với các số liệu nghiên cứu của các tạp chí nghiên cứu khoa học Dữ liệu sử dung để ƣớc lƣợng là dữ liệu thống kê hàng năm
14 của 13 địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long từ năm 2000 đến năm
6.2 Phương pháp nghiên cứu Đề tài dựa vào lý thuyết, các nghiên cứu trước của các tác giả để xác định tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân; tác động của đầu tư công đến tăng trưởng và lựa chọn các biến nghiên cứu phù hợp
Phương pháp mô hình toán kinh tế được thực hiện bằng cách xây dựng mô hình định lượng nhằm đánh giá và đo lường tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Lƣợc khảo tài liệu
Một trong những lý do chính để thực hiện đề tài nghiên cứu này là từ việc lược khảo và tổng hợp các tài liệu nghiên cứu trước đó trong cùng lĩnh vực Luận văn đã tham khảo có hệ thống các công trình đã được công bố, nhằm kế thừa tri thức từ những trải nghiệm trước đó, đồng thời tích lũy thêm kiến thức để vận dụng hiệu quả trong nghiên cứu khoa học.
7.1 Lƣợc khảo nghiên cứu của thế giới
7.1.1 Tác động của đầu tƣ công đến đầu tƣ tƣ nhân
Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân hiện nay vẫn đang được tranh luận với hai giả thuyết chính: một là đầu tư công có thể "thúc đẩy" đầu tư tư nhân, và hai là đầu tư công lại "chèn ép" đầu tư tư nhân.
Một số nhà kinh tế cho rằng đầu tư công có khả năng thúc đẩy đầu tư tư nhân, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng Việc này tạo ra môi trường vĩ mô an toàn, thu hút vốn đầu tư và giảm chi phí đầu tư cho khu vực tư nhân Hơn nữa, nhu cầu tiêu dùng của chính phủ đối với hàng hóa và dịch vụ sẽ kích thích đầu tư tư nhân do kỳ vọng vào doanh thu và lợi nhuận cao hơn Nghiên cứu của Ramirez và Nazmi (2003) cùng Argimón et al (1997) cho thấy rằng đầu tư công, đặc biệt là vào cơ sở hạ tầng, có thể khuyến khích đầu tư tư nhân trong nền kinh tế.
15 đường cao tốc mới hoặc tăng sản lượng điện bằng cách xây dựng các nhà máy điện mới
Chi tiêu công cộng có tác động tích cực đến đầu tư tư nhân khi tổng năng suất tăng, như Barro (1990) đã chỉ ra rằng đầu tư công ảnh hưởng mạnh mẽ đến năng suất biên của vốn tư nhân và lao động Blejer và Khan (1984) nhấn mạnh rằng mức đầu tư cao là thiết yếu cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt tại các nước đang phát triển Ngoài ra, Cruz và Teixeira (1999) cũng đồng tình với quan điểm của Dixit và Pindyck (1994), cho rằng chính phủ thường ít rủi ro hơn so với các nhà đầu tư tư nhân trong các dự án có lợi nhuận cao nhưng cũng đầy rủi ro.
Nhiều ý kiến cho rằng đầu tư công có thể ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư nhân, thể hiện qua hiệu ứng “chèn ép” trong lý thuyết IS - LM Khi chính sách tiền tệ không thay đổi, tăng chi tiêu của chính phủ sẽ làm dịch chuyển đường cong IS, dẫn đến tăng giá và lãi suất ngắn hạn, từ đó ảnh hưởng xấu đến đầu tư tư nhân (Buiter, 1977; Sundararajan và Thakur, 1980; Ram, 1986) Hơn nữa, đầu tư công được tài trợ bằng thuế có thể thay đổi giá tương đối, gây ra phân phối tài nguyên không hợp lý (Atukeren, 2004).
7.1.2 Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
Theo Phetsavong và Ichihashi (2012), có hai hướng chính trong các mô hình tăng trưởng kinh tế: mô hình tăng trưởng tân cổ điển, hay còn gọi là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, được phát triển bởi Solow (1956), tập trung vào việc giải thích tăng trưởng kinh tế dài hạn thông qua việc tích lũy vốn, lao động, tăng dân số và năng suất; và mô hình tăng trưởng mới, hay mô hình tăng trưởng nội sinh, do các nhà nghiên cứu như Romer (1996), Lucas (1988), Barro (1990) và Rebelo (1991) tiên phong Bên cạnh đó, nhiều mô hình khác cũng được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu, chẳng hạn như mô hình Cobb-Douglas (1928) được sử dụng bởi Aschauer (1989), Haque (2013) và Dreger và Reimers (2014) để đánh giá tác động của lao động (L) và đầu tư (K).
Đầu tư công đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng đến tổng cầu và tổng cung Cụ thể, đầu tư công tác động đến tổng cầu thông qua chi tiêu của chính phủ và tổng cung qua chức năng sản xuất Ngoài ra, đầu tư công còn gián tiếp thúc đẩy tổng cầu bằng cách kích thích đầu tư tư nhân và cung cấp tổng hợp thông qua việc thu hút vốn từ khu vực tư nhân.
7.2 Lƣợc khảo nghiên cứu tại Việt Nam
7.2.1 Tác động của đầu tƣ công đến đầu tƣ tƣ nhân Ở Việt Nam gần đây đã có các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế Tuy nghiên các kết quả vẫn chưa thống nhất và còn nhiều kết quả trái ngƣợc nhau Với mục tiêu đánh giá xem đầu tƣ công chèn lấn hay thúc đẩy đầu tƣ tƣ nhân ở Việt Nam hay không? Tô Trung Thành
Nghiên cứu của Sử Đình Thành (2011) chỉ ra rằng đầu tư công không chỉ không chèn lấn đầu tư tư nhân mà còn tạo ra hiệu ứng thúc đẩy tích cực trong dài hạn, đặc biệt là đối với đầu tư tư nhân trong nước Theo dữ liệu từ năm 2011, việc tăng 1% vốn đầu tư công ban đầu có thể dẫn đến sự thu hẹp 0.48% trong đầu tư tư nhân Mặc dù tác động của đầu tư công đến GDP thấp hơn so với đầu tư tư nhân, nghiên cứu của Nguyễn Thị Cành và cộng sự (2018) đã cung cấp bằng chứng cho thấy cả đầu tư công và đầu tư tư nhân đều có hiệu quả tích cực đối với tăng trưởng GDP ngành ở Việt Nam Kết quả cho thấy đầu tư công không chỉ thúc đẩy đầu tư tư nhân mà còn góp phần tăng trưởng GDP trong dài hạn.
7.2.2 Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
Đầu tư công tại Việt Nam đã thu hút sự chú ý của nhiều học giả, với một số nghiên cứu tập trung vào việc phân tích thực nghiệm tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế Các nghiên cứu này, như của Tô Trung Thành (2011), đã chỉ ra vai trò quan trọng của đầu tư công trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
Sử Đình Thành 2011, 2013; Trần Nguyễn Ngọc Anh Thƣ và Lê Hoàng Phong, 2014; Nguyễn Thị Cành, 2018) Tuy nhiên, phạm vi các nghiên cứu thường rộng
Việc xem xét tác động của đầu tư công tại Đồng bằng sông Cửu Long, một trong 17 tỉnh thành của Việt Nam, còn khá hạn chế Điều này tạo ra những khó khăn trong việc đề xuất các chính sách đầu tư công hiệu quả cho từng vùng miền cụ thể.
Khoảng trống nghiên cứu
Gần đây, đầu tư công đã thu hút sự chú ý của nhiều học giả về vai trò của nó trong tăng trưởng kinh tế Mặc dù có nhiều nghiên cứu, nhưng tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế ở cấp độ vùng, địa phương vẫn còn hạn chế Do đó, luận văn này nhằm kiểm định thực nghiệm tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế tại các tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn 2000-2018 Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp cơ sở để xây dựng các chính sách đầu tư công hiệu quả, góp phần vào sự tăng trưởng nhanh và bền vững của khu vực.
Cấu trúc của luận văn
Luận văn được cấu trúc thành 5 chương ứng với các nội dung nghiên cứu đƣợc rút ra:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu: Trình bày tóm lược vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, mô hình nghiên cứu, những điểm nổi bật của luận văn và kết cấu luận văn
Chương 2: Cơ sở lý luận về đầu tư công và tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế: Trình bày khái niệm về tăng trưởng kinh tế, khái niệm về đầu tƣ, đầu tƣ công và đầu tƣ tƣ nhân; các lý thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và thiết kế nghiên cứu
Chương 4: Phân tích kết quả nghiên cứu: Mô tả phân tích thống kê dữ liệu nghiên cứu, kết quả phân tích của mô hình kinh tế lượng; Xác định chiều hướng tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Chương 5: Kết luận và khuyến nghị: Trình bày tóm tắt kết quả nghiên cứu được tìm ra, gợi ý một số chính sách Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài (nếu có).
TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Cơ sở lý thuyết
Theo Douglass C.North và Robert paul Thomas (1973), đã kết luận rằng
Tăng trưởng kinh tế diễn ra khi sản lượng tăng trưởng nhanh hơn dân số Theo Hendrik Van den Berg, tăng trưởng kinh tế không chỉ là sự gia tăng sản lượng mà còn là sự nâng cao phúc lợi cho con người.
Simon Kuznets (1966) định nghĩa tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng lâu dài trong khả năng cung cấp đa dạng hàng hóa cho dân cư, dựa trên công nghệ tiên tiến và các điều chỉnh về thể chế cũng như hệ tư tưởng cần thiết.
“Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng bền vững về sản phẩm tính theo đầu người”
Theo Paul Anthony Samuelson, tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc sản lượng tiềm năng của một quốc gia Nói cách khác, tăng trưởng xảy ra khi đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) của quốc gia đó dịch chuyển ra xa.
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng của GDP thực trên mỗi người Chúng ta lựa chọn GDP thực vì đây là chỉ số phản ánh tổng sản lượng và tổng thu nhập của một nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
2.1.1.2 Chỉ tiêu đo lường GDP
Trong nghiên cứu kinh tế, tăng trưởng kinh tế thường được xác định thông qua sự gia tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP), theo các tài liệu lý thuyết kinh điển.
(GDP) của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định
GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) là giá trị thị trường tổng cộng của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong lãnh thổ của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm Chỉ số này không phân biệt nguồn vốn và chủ sở hữu, cho dù là trong nước hay nước ngoài GDP là thước đo quan trọng phản ánh quy mô và sức mạnh của nền kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế có thể được đánh giá thông qua tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GNI), hai chỉ tiêu này có thể được suy ra từ chỉ số GDP.
- Qui mô tăng trưởng (mức tăng trưởng tuyệt đối) ΔGDPn = GDP n – GDP0
- Tốc độ tăng trưởng (mức tăng trưởng tương đối) g = (GDP n – GDP 0 )/GDP 0 x 100%
Trong đó ΔGDP n : : qui mô tăng trưởng GDP năm nghiên cứu (năm n) so với năm gốc so sánh
GDP n : Tổng sản phẩm quốc nội năm n
GDP 0 : Tổng sản phẩm quốc nội năm gốc so sánh g: tốc độ tăng trưởng kinh tế
2.1.1.3 Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế
Theo nghiên cứu của Samuelson và Nordhalls (1997), các nhà kinh tế cho rằng động lực của sự tiến bộ kinh tế cần phải dựa trên bốn yếu tố chính.
Nguồn nhân lực, bao gồm lực lượng lao động, kỹ năng và kiến thức, là yếu tố quan trọng trong sản xuất, vì vốn, công nghệ và nguyên liệu có thể dễ dàng mua hoặc vay Tài nguyên như đất đai, khoáng sản và nước cũng đóng vai trò thiết yếu, nhưng không phải là yếu tố quyết định thành công trong nền kinh tế toàn cầu; nhiều quốc gia không có tài nguyên vẫn phát triển nhờ vào lao động và vốn Vốn không chỉ bao gồm máy móc mà còn cả cơ sở hạ tầng như giao thông và y tế, và việc tích lũy vốn cần thời gian và sự hy sinh trong tiêu dùng Các quốc gia có thu nhập cao thường có nhiều máy móc, dẫn đến năng suất cao hơn, trong khi công nghệ và đổi mới là yếu tố sống còn cho tăng trưởng kinh tế, với sự cải tiến liên tục góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm và mức sống.
Đầu tư trong kinh tế học vĩ mô đề cập đến việc gia tăng tư bản để nâng cao năng lực sản xuất trong tương lai, còn được gọi là hình thành hoặc tích lũy tư bản Đầu tư thường được phân loại thành hai loại chính: đầu tư tư nhân và đầu tư công Trong mô hình tăng trưởng của Keynes, đầu tư tư nhân (I) và đầu tư công (G) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tổng cầu.
Y trong phương trình: Y = C + I + G + X - M (với C là tiêu dùng cá nhân, X là xuất khẩu và M là nhập khẩu)
Theo J.Sachs và F.Larrain (1993), đầu tư được định nghĩa là phần sản lượng tích lũy nhằm tăng cường năng lực sản xuất cho nền kinh tế trong tương lai Sản lượng này bao gồm cả sản phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài, bao gồm các sản phẩm hữu hình như nhà ở, công trình xây dựng, máy móc thiết bị, cũng như các sản phẩm vô hình như bằng sáng chế và phí chuyển nhượng tài sản.
Đầu tư là hoạt động sử dụng tài chính, vật chất, lao động và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong thời gian dài, nhằm mang lại lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.
Theo Luật Đầu tư (2005), đầu tư được định nghĩa là việc hy sinh nguồn lực hiện tại để thực hiện các hoạt động nhằm đạt được kết quả lớn hơn trong tương lai so với nguồn lực đã bỏ ra.
Đầu tư là một khái niệm đa dạng với nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả đều hướng đến mục tiêu chung là tạo ra lợi nhuận trong tương lai.
Các nghiên cứu trước
2.2.1 Đầu tƣ công tác động đến đầu tƣ tƣ nhân
Theo lý thuyết, có hai giả thuyết chính về quan hệ giữa đầu tƣ công và đầu tƣ tƣ nhân
Giả thuyết đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân cho rằng, sự gia tăng đầu tư công sẽ làm thu hẹp đầu tư tư nhân, được minh họa qua lý thuyết IS - LM Khi chính sách tiền tệ không đổi, tăng chi tiêu của chính phủ có thể dẫn đến sự thay đổi trong đường cong IS, gây tăng giá và lãi suất, ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư nhân (Buiter, 1977; Sundararajan và Thakur, 1980; Ram, 1986) Đầu tư công, nếu được tài trợ bằng thuế, có thể làm biến dạng giá tương đối và dẫn đến phân phối tài nguyên không hợp lý (Atukeren, 2004) Mặc dù đầu tư công thường có hiệu quả thấp hơn đầu tư tư nhân, giả thuyết “lấn át” khuyến nghị cắt giảm đầu tư công để thúc đẩy tăng trưởng Ramirez và Nazmi (2003) lập luận rằng cả chi tiêu đầu tư công và tư nhân đều góp phần vào tăng trưởng kinh tế, nhưng tất cả chi tiêu chính phủ đều có tác động tiêu cực đến đầu tư và tăng trưởng tư nhân Cuối cùng, chi tiêu công cho giáo dục và y tế lại có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến việc hình thành vốn tư nhân và tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Giả thuyết thứ hai cho rằng đầu tư công có khả năng thúc đẩy đầu tư tư nhân, đặc biệt qua việc phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ công cộng Đầu tư công tạo ra một môi trường vĩ mô an toàn, thu hút vốn đầu tư và giảm chi phí cho khu vực tư nhân Ngoài ra, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ từ chính phủ cũng kích thích đầu tư tư nhân nhờ vào kỳ vọng cao hơn về doanh thu và lợi nhuận Các nghiên cứu của Ramirez và Nazmi (2003) cùng với Argimón et al (1997) đã chỉ ra tầm quan trọng của đầu tư công trong việc tạo ra động lực cho đầu tư tư nhân.
38 công có thể khuyến khích đầu tƣ tƣ nhân khi Chính phủ đầu tƣ cụ thể vào cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế
Bruno de Oliveira Cruz và Joanílio R Teixeira (1999) đã áp dụng mô hình tự hồi quy phân phối trễ (ARDL) để nghiên cứu tác động của đầu tư công đến đầu tư tư nhân tại Brazil trong giai đoạn 1947 – 1990 Kết quả cho thấy đầu tư công có ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư nhân trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn, hai loại hình đầu tư này lại bổ sung cho nhau.
Nghiên cứu của năm 2009 đã áp dụng mô hình VECM để phân tích mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Jordan trong giai đoạn 1976 - 2004 Kết quả cho thấy đầu tư công đóng vai trò bổ sung cho đầu tư tư nhân, từ đó khẳng định rằng các hoạt động đầu tư của chính phủ có ảnh hưởng tích cực đến đầu tư tư nhân và sự tăng trưởng kinh tế của Jordan.
Sử dụng phân tích ARDL, Bukhari et al (2007) đã chỉ ra rằng đầu tư tư nhân có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông Á trong những năm qua.
Từ năm 1971 đến 2000, nghiên cứu về động lực đầu tư công cho thấy việc phân phối lại chi tiêu công có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Đồng thời, đầu tư công, đầu tư tư nhân và tiêu dùng công đều có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế ở tất cả các quốc gia trong mẫu nghiên cứu.
Theo nghiên cứu của Kollamparambil và Nicolaou (2011), đầu tư công không chỉ đơn thuần là bổ sung cho đầu tư tư nhân, mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân thông qua hiệu ứng tăng tốc tại Nam Phi Trong khi đó, Gjini và Kukeli (2012) đã chỉ ra rằng từ năm 1991 đến 2009, đầu tư công không có tác động lớn đến đầu tư tư nhân tại 11 quốc gia Đông Âu, khi áp dụng phương pháp bình quân bình phương nhỏ nhất Hơn nữa, tác động biên của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân là tích cực, nhưng có xu hướng giảm khi các quốc gia phát triển từ mức kém phát triển sang mức phát triển hơn.
Dreger và Reimers (2014, 2016) đã áp dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas và mô hình VAR để phân tích các vấn đề kinh tế giữa 12 quốc gia trong khu vực đồng Euro từ năm 1991 đến 2012 Nghiên cứu này đưa ra những kết luận trái ngược với các nghiên cứu trước đó.
Đầu tư công và đầu tư tư nhân trong khu vực đồng Euro có mối quan hệ phức tạp, với đầu tư công ảnh hưởng đến cả vốn cổ phiếu và dòng vốn đầu tư gộp Đầu tư tư nhân phản ứng với tác động của đầu tư công, trong khi đầu tư công được coi là một biến ngoại sinh và chính sách Thiếu đầu tư công có thể gây ra hạn chế cho đầu tư tư nhân và ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP trong khu vực này.
Rasmané Ouédraogo và cộng sự (2019), nghiên cứu xem đầu tƣ công “thúc đẩy” hay “chèn lấn” đầu tƣ tƣ nhân tại 44 quốc gia vùng Sahara Châu Phi từ năm
Từ năm 1960 đến 2015, nghiên cứu cho thấy đầu tư công có tác động tích cực đến sự phát triển của đầu tư tư nhân tại các quốc gia vùng Sahara Đặc biệt, tác động này mạnh mẽ hơn ở những quốc gia có khu vực tư nhân phát triển mạnh.
Hiện nay, nghiên cứu về đầu tư công và mối quan hệ của nó với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam đang ngày càng phát triển Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các nghiên cứu chuyên sâu về tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định hai giả thuyết cơ bản đã được đề cập.
Theo nghiên cứu của Sử Đình Thành (2011), đầu tư công tại Việt Nam có tác động tích cực đến đầu tư khu vực tư nhân, tạo ra hiệu ứng thúc đẩy "Crowd in" thay vì chèn lấn "Crowd out" Tác giả sử dụng mô hình SVAR để phân tích các biến có tính cấu trúc, cho thấy rằng đầu tư công không chỉ không làm giảm đầu tư tư nhân mà còn thúc đẩy đầu tư tư nhân trong nước trong dài hạn.
Nghiên cứu của Tô Trung Thành (2011) đã chỉ ra rằng đầu tư công có xu hướng "lấn át" đầu tư tư nhân, trái ngược với quan điểm của Sử Đình Thành Tác giả đã áp dụng mô hình VECM để thực hiện đánh giá này, cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa hai loại hình đầu tư.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn 1986-2010 cho thấy đầu tư công có ảnh hưởng tích cực đến GDP, với sự gia tăng vốn đầu tư góp phần làm tăng trưởng GDP Tuy nhiên, tác động của đầu tư công đến GDP thấp hơn nhiều so với đầu tư tư nhân Đặc biệt, một sự gia tăng 1% của đầu tư công sẽ dẫn đến sự thu hẹp 0,48% của đầu tư tư nhân sau một thập kỷ.
Theo nghiên cứu của Hoàng Dương Việt Anh (2013), đầu tư công và tư nhân có tác động khác nhau đến tăng trưởng kinh tế tại vùng Trung Bộ Việt Nam Đầu tư công vào cơ sở vật chất và con người không chỉ nâng cao khả năng sản xuất của khu vực tư nhân mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, do nguồn lực hạn chế, việc khu vực công sử dụng nguồn lực để sản xuất hàng hóa tư nhân có thể "lấn át" đầu tư của khu vực tư nhân, dẫn đến tác động tiêu cực đến quá trình tăng trưởng.