GIỚI THIỆU CHUNG
Lý do chọn đề tài
Trong thế kỷ bùng nổ thông tin hiện nay, công nghệ đã được ứng dụng hiệu quả trong lĩnh vực truyền thông đại chúng như báo viết, báo nói, truyền thanh và truyền hình Những phương tiện này đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền giáo dục và cung cấp thông tin, kiến thức cho người dân Bên cạnh đó, chúng còn là công cụ quản lý nhà nước và xã hội hiệu quả nhờ tính phổ quát và rộng rãi.
Hầu hết người dân, từ nông thôn đến thành thị, đều có thể dễ dàng truy cập và tìm kiếm thông tin cần thiết qua internet, báo chí và radio Những công cụ này đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, giúp mọi người tiếp nhận tin tức mới nhất về đất nước và thế giới chỉ trong chốc lát.
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội, vấn đề an toàn trong không gian công cộng đang trở nên nghiêm trọng và cần được chú ý.
Các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh tình hình an ninh tại các khu vực không gian công cộng thông qua các bài báo và bản tin.
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu những trải nghiệm của cư dân đô thị về an toàn trong không gian công cộng và các yếu tố tác động” nhằm khám phá tác động của việc đưa tin về an toàn ở KGCC qua các phương tiện truyền thông đến cuộc sống của người dân Nghiên cứu này giúp cung cấp cái nhìn cụ thể hơn về những trải nghiệm của cư dân liên quan đến an toàn trong không gian công cộng.
Ý nghĩa thực tiễn
Chúng tôi hy vọng rằng việc nghiên cứu trải nghiệm của cư dân về an toàn tại không gian công cộng, cùng với tác động của việc đưa tin về an toàn từ các phương tiện truyền thông đại chúng, sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà nghiên cứu, tổ chức và cơ quan chức trách.
Trang 8 tổng hợp để từ đó giúp họ đưa ra những nhận định, những phân tích nhằm phục vụ cho những lợi ích chung
Đề tài nghiên cứu này ứng dụng kiến thức lý thuyết, phương pháp nghiên cứu và kỹ năng phân tích thông tin đã học Nó không chỉ là cơ sở để phát triển các giả thuyết mà còn là tài liệu tham khảo quý giá cho những nghiên cứu liên quan trong tương lai.
Điểm lại thư tịch
Đã có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến truyền thông đại chúng và an toàn ở không gian công cộng
Tác giả Nguyễn Thị Cẩm Giang nghiên cứu đề tài “Không gian công cộng đô thị và quan hệ giao tiếp của người dân”, tập trung vào trường hợp điển cứu tại phường 6, quận 3 và xã Qúy Tây, huyện Nghiên cứu này nhằm làm rõ vai trò của không gian công cộng trong việc thúc đẩy giao tiếp và tương tác giữa người dân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống đô thị.
Bình Chánh - Tp Hồ Chí Minh), luận văn tốt nghiệp cử nhân xã hội học, Đại học Mở Tp
Năm 2009, tại Hồ Chí Minh, một nghiên cứu đã được thực hiện để khám phá mối quan hệ giữa nhu cầu giao tiếp và không gian công cộng đô thị Tác giả đã khảo sát các địa điểm như công viên, chợ, siêu thị, hẻm, nhà văn hóa, chùa và nhà thờ Kết quả cho thấy người dân thường xuyên đến các không gian công cộng và có thái độ giao tiếp thân thiện.
Tác giả Nguyễn Minh Hòa trong bài tham luận “Từ không gian giao tiếp đến không gian nhân văn – con đường đi của đô thị Việt Nam” nhấn mạnh rằng các mối quan hệ nhân văn là yếu tố then chốt của đô thị hiện đại Sự phong phú của dịch vụ đô thị đang làm gia tăng khoảng cách tâm lý xã hội, khiến không gian sống trở nên chật hẹp Công nghệ hiện đại giúp con người thỏa mãn nhu cầu cá nhân mà không cần ra ngoài, dẫn đến nhu cầu cấp thiết về các không gian công cộng Tuy nhiên, những không gian này cần phải vượt ra ngoài giao tiếp xã hội thông thường, hướng tới việc tạo dựng một môi trường sống đầy tính nhân văn.
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Thùy Dung, Nguyễn Thị Minh Hòa và Lý Vy đã nghiên cứu về thương mại hóa không gian công cộng đô thị, với trường hợp điển cứu là Cà Phê cóc tại công viên 30/4, thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này nhằm khám phá những tác động và cơ hội từ việc thương mại hóa không gian công cộng, đồng thời phân tích vai trò của Cà Phê cóc trong việc nâng cao trải nghiệm của người dân và du khách tại khu vực công viên.
HCM”, Đề tài thực tập tốt nghiệp chuyên ngành XHH, Trường đại học Mở Tp HCM, năm
Năm 2011, nghiên cứu hiện tượng thương mại hóa không gian công cộng (KGCC) thông qua mô hình cà phê cóc tại công viên 30/4, TP HCM đã chỉ ra rằng vấn đề này diễn ra ở cấp độ vi mô và dẫn đến việc tư hữu hóa KGCC do thiếu sự kiểm soát chặt chẽ trong quản lý đô thị Các hội thảo về quản lý và quy hoạch đô thị thường do các nhà quy hoạch đảm nhiệm mà không có sự tham gia của chuyên gia từ các lĩnh vực như văn hóa, tâm lý, xã hội học, cũng như người dân, mặc dù họ là những đối tượng trực tiếp hưởng lợi từ các công trình KGCC.
Võ Kim Cương trong bài tham luận năm 2010 mang tên “Không gian công cộng đang hẹp dần” đã chỉ ra hai vấn đề chính: sự thiếu thốn nghiêm trọng của không gian công cộng tại Tp Hồ Chí Minh và tỷ lệ diện tích công trình công cộng trên đất đô thị rất thấp Tổng diện tích không gian công cộng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng diện tích đô thị, điều này ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân.
Tỷ lệ không gian xanh công cộng (KGCC) tại Tp Hồ Chí Minh hiện chỉ còn từ 15 đến 20%, trong khi ở các nước phát triển như Mỹ, con số này lên tới 40% Nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm KGCC là do tình trạng lấn chiếm đất đường, hẻm, đất công và đất quy hoạch Việc mất mát KGCC không chỉ do lỗi của các nhà quy hoạch mà còn liên quan đến ý thức của người dân.
Tác giả An Nhiên trong bài viết “Không gian đô thị chung tại TP HCM chưa đẹp, chưa hấp dẫn” trên trang web của Hội Quy Hoạch và Phát Triển Việt Nam đã chỉ ra rằng nhiều kiến trúc sư mô tả không gian đô thị chung tại TP.HCM là “nặng nề, nhàm chán và không hiệu quả.” Thực trạng này xuất phát từ việc không gian đô thị chung không chỉ thiếu hụt mà còn bị biến dạng và không nhận được sự quan tâm đúng mức, dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho thành phố.
Không gian công cộng hiện nay thiếu hụt mảng xanh và công viên để người dân thư giãn Nhiều khu dân cư mới chỉ có những mảnh đất "thừa" không thể xây dựng, trong khi các khu dân cư cũ lại đang chứng kiến sự biến dạng của mảng xanh.
1http://ashui.com/mag/index.php/chuyenmuc/quyhoachdothi/68-quyhoachdothi/3662-tinh-an-toan- cua-khong-gian-cong-cong.html
Theo Hồ Viết Vinh trong bài viết “Tính an toàn của không gian công cộng”, công viên 30-4 (TP.HCM) chưa thực sự thu hút mọi tầng lớp người dân, đặc biệt vào buổi tối Để cải thiện tình hình, cần lắp đặt thêm đèn chiếu sáng nghệ thuật và các công trình nghệ thuật, nhằm khuyến khích người dân đến đây nhiều hơn Sự phát triển không gian công cộng đòi hỏi sự hợp tác giữa chính quyền và người dân, trong đó chính quyền cần chủ động tạo thêm không gian và bảo vệ những gì đã có Người dân, mặc dù đi sau, chính là những người thổi hồn cho không gian này Ở nhiều quốc gia, người dân tích cực tham gia làm đẹp không gian công cộng, từ việc sơn lại các công trình đến tổ chức các sự kiện nghệ thuật như hội chợ, biểu diễn âm nhạc, hội họa và điêu khắc, giúp không gian trở nên sống động hơn.
Để tạo ra không khí sống động trong không gian đô thị, chính quyền cần thiết lập cơ chế và động thái khuyến khích sự tham gia của người dân Điều này không chỉ bao gồm việc “giữ đất” cho các khu vực đô thị mà còn phải tạo điều kiện cho người dân góp phần vào việc hình thành bản sắc của những không gian này.
Hồ Quang Toàn và Tâm Thảo đã trình bày bài viết "Không gian vỉa hè, nét văn minh của đô thị" trên trang web của Hội Quy Hoạch và Phát Triển Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan trọng của không gian vỉa hè trong việc phát triển đô thị văn minh.
2http://ashui.com/mag/chuyenmuc/quy-hoach-do-thi/3662-tinh-an-toan-cua-khong-gian-cong- cong.html
3http://ashui.com/mag/index.php/chuyenmuc/quyhoachdothi/68-quyhoachdothi/3662-tinh-an-toan- cua-khong-gian-cong-cong.html
Trang 11 Ở bất kỳ thành phố nào, không gian vỉa hè cũng luôn được coi là một phần bộ mặt cảnh quan đô thị, là nơi thể hiện rõ trật tự đô thị và trình độ văn minh phát triển của một thành phố Trật tự vỉa hè về cơ bản có thể cho là tình trạng vỉa hè được sử dụng đúng chức năng cơ bản của nó, là phần gắn liền với đường phố dành ưu tiên tối đa cho hoạt động đi bộ Tuy nhiên, nếu hiểu trật tự vỉa hè một cách đơn giản là tất cả các vỉa hè trong đô thị đều phải trống thoáng hoàn toàn, tuyệt đối không có các hoạt động khác như buôn bán, đậu xe… thì ở một chừng mực nào đó, vô hình trung đã triệt tiêu các hoạt động đô thị gắn liền với vỉa hè; tạo ra những vỉa hè thiếu sức sống, không đáp ứng nhu cầu phong phú của đô thị, từ đó phát sinh mâu thuẫn không thể giải quyết giữa mục tiêu quản lý và thực tế đô thị.
Vỉa hè trong đô thị không chỉ là không gian đi bộ mà còn là nơi trồng cây xanh, lắp đặt thiết bị đường phố và hoạt động kinh tế Nó cung cấp sản phẩm và dịch vụ tiện lợi với giá rẻ cho người dân, đồng thời tạo công ăn việc làm cho những người bán hàng Hoạt động kinh tế vỉa hè góp phần giải quyết một số vấn đề kinh tế mà chính quyền gặp khó khăn Để quản lý và định hướng các hoạt động này, cần có giải pháp hợp lý nhằm tạo ra trật tự vỉa hè phù hợp với đặc trưng khu vực và phát triển đô thị văn minh Vỉa hè không chỉ là dải lề đi bộ mà còn là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng bản sắc và văn hóa đô thị Do đó, việc cải thiện và duy trì chức năng của vỉa hè là cần thiết để xây dựng một đô thị khỏe mạnh.
Theo các tác giả hoạt động “kinh tế vỉa hè” cần được quy hoạch cụ thể trên từng đoạn phố
Dựa trên đặc điểm của tuyến phố và nhu cầu đô thị, việc quy hoạch các loại hình và quy mô kinh tế vỉa hè là rất cần thiết Cần xác định rõ vị trí cho các hoạt động như quầy sách báo, chỗ bơm vá xe và quầy thức ăn nhẹ, đồng thời đảm bảo sự thông suốt cho luồng bộ hành Vỉa hè không chỉ phục vụ cho các hoạt động kinh tế mà còn phải duy trì không gian công cộng, được chia sẻ giữa các phương tiện đậu xe và lối đi Đặc biệt, trong các khu phố thương mại-dịch vụ, nhu cầu sử dụng vỉa hè cho hoạt động kinh tế và chỗ đậu xe, chủ yếu là xe máy, là điều không thể tránh khỏi Do đó, cần có giải pháp đồng bộ cho cả vỉa hè và các cửa hàng, nhằm tạo ra một không gian sử dụng chung hiệu quả.
Lý Khánh Tâm Thảo với bài tham luận “KGCC ở Tp HCM hướng đến tính bền vững”
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu những trải nghiệm của cư dân về an toàn trong không gian công cộng và các yếu tố tác động
4.2 Mục tiêu cụ thể Để làm sáng tỏ mục tiêu tổng quát trên, đề tài nghiên cứu hướng tới tìm hiểu và làm rõ các mục tiêu cụ thể sau:
- Tìm hiểu nhận thức của người dân đô thị về không gian công cộng
- Tìm hiểu trải nghiệm của người dân đô thị về không gian công cộng
Nghiên cứu mức độ tiếp cận và theo dõi của người dân đối với thông tin về an toàn trong không gian công cộng là rất quan trọng Việc phân tích tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng như internet, báo in, truyền thanh và truyền hình sẽ giúp hiểu rõ hơn về cách thức thông tin được truyền tải và ảnh hưởng đến nhận thức của cộng đồng.
5 Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Những trải nghiệm của cư dân về an toàn trong không gian công cộng và các yếu tố tác động
Người dân sống trong khu vực quận 3, 6 và 10 tại thành phố Hồ Chí Minh
6 Địa bàn nghiên cứu Điển cứu tại khu vực quận 3, 6 và 10 tại thành phố Hồ Chí Minh
Trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào bốn loại hình truyền thông chính: truyền thanh, truyền hình, internet và báo in Mặc dù có nhiều hình thức truyền thông khác cũng được áp dụng, nhưng chúng chỉ được sử dụng để tham khảo và so sánh với các loại hình chính này.
Chúng tôi nghiên cứu bốn không gian công cộng bao gồm đường phố chính, ngõ/hẻm và công viên, vì đây là những khu vực mà người dân thường xuyên qua lại và phản ánh rõ nét về vấn đề an toàn công cộng.
Do hạn chế về thời gian và nguồn lực, nghiên cứu này chỉ tập trung vào trải nghiệm của người dân về không gian công cộng, cũng như cách mà các phương tiện truyền thông đại chúng phản ánh vấn đề an toàn của những không gian này đối với cộng đồng.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ nghiên cứu người dân đang sống trong khu vực ba quận đó là 3, 6 và 10.
Phương pháp và kĩ thuật nghiên cứu
8.1 Loại hình nghiên cứu Đề tài nghiên cứu của chúng tôi kết hợp hai phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính Tuy nhiên phương pháp nghiên cứu định lượng vẫn đóng vai trò chủ yếu
Các công cụ thu thập thông tin chủ yếu là sử dụng bản hỏi, khảo sát thực địa, phỏng vấn bán cơ cấu và quan sát
Việc áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng giúp xác định mức độ trải nghiệm và nhận thức của người dân về không gian công cộng, đồng thời mô tả cái nhìn chung của họ về vấn đề này Phương pháp này cũng cho phép chúng tôi phân tích mối tương quan giữa sự lựa chọn các phương tiện của người dân.
TTĐC với các yếu tố tác động như tuổi, giới tính, nghề nghiệp…
Phương pháp định tính cho phép chúng tôi khám phá sâu hơn các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự đánh giá và nhận thức của người dân về không gian công cộng, đặc biệt là vấn đề an toàn trong các khu vực này.
8.2 Phương pháp thu thập thông tin
Chúng tôi thu thập thông tin định lượng bằng bản hỏi soạn sẵn
Với những thông tin định tính chúng tôi phỏng vấn sâu cá nhân
Chúng tôi áp dụng phương pháp quan sát và trò chuyện với người dân, cùng với việc tham khảo ý kiến từ các chuyên gia, nhằm xác định rõ ràng hướng đi cho đề tài nghiên cứu.
8.3 Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu sẵn có
Bản hỏi cấu trúc, bản phỏng vấn sâu và tài liệu sẵn có
8.4 Phương pháp xử lý thông tin
- Đối với các dữ kiện định lượng chúng tôi mã hóa và xử lý bằng phần mềm SPSS 11.5
(Statistic Package Socia Sciences) và phầm mềm Microsoft Excel 2007
Để phân tích dữ liệu hiệu quả, cần áp dụng các phương pháp thống kê như tương quan, Chi-square, ANOVA, bảng tần số, bảng chéo, bảng tần số đa phương án trả lời, T-test và phân tích nhân tố Những phương pháp này giúp xác định mối quan hệ giữa các biến, kiểm tra sự khác biệt giữa các nhóm và phân tích cấu trúc tiềm ẩn trong dữ liệu.
Chúng tôi thu thập thông tin định tính thông qua các phương pháp như quan sát, phỏng vấn và ghi chép Sau đó, chúng tôi tiến hành thống kê và chọn lọc những dữ liệu phù hợp để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
8.5 Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 240 người, sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên kết hợp với các tiêu chí về giới tính, độ tuổi và quận Số lượng được chia đều cho ba nhóm đối tượng, bao gồm 135 nam và 135 nữ.
- Từ 50 tuổi trở lên(40 nam, 40 nữ)
9.1 Định nghĩa một số khái niệm
Truyền thông là quá trình chia sẻ thông tin giữa hai hoặc nhiều tác nhân tương tác, trong đó họ sử dụng các quy tắc và tín hiệu chung Thông tin được truyền từ người gửi đến người nhận, và trong những trường hợp phức tạp hơn, nó tạo ra sự liên kết giữa họ Sự phát triển của truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sự hiểu biết và kết nối trong xã hội.
Trang 16 phát triển các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những giừ người khác nói (ra hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ
Truyền thông đại chúng là quá trình phổ biến thông tin đến toàn xã hội thông qua các phương tiện như báo chí, radio và tivi Quá trình này bao gồm ba yếu tố chính: hoạt động truyền thông, các nhà truyền thông và đối tượng công chúng.
Báo in là một sản phẩm văn hóa tinh thần quan trọng, được sản xuất thông qua công nghệ in ấn hàng loạt và phát hành định kỳ, nhằm cung cấp thông tin thời sự cho công chúng Các loại báo in bao gồm nhật báo, báo phát hành hai hoặc ba ngày một lần, tuần báo, báo hàng tháng và báo nửa tháng, phục vụ nhu cầu thông tin đa dạng của xã hội.
Đài phát thanh là một hình thức truyền thông đại chúng, nơi thông tin được truyền tải chủ yếu qua âm thanh thông qua sóng điện hoặc hệ thống dây dẫn Nhờ vào nguyên tắc phát thanh qua sóng điện, đài phát thanh có khả năng chuyển tải tin tức đến mọi nơi, mọi lúc, mang lại sự tiện lợi cho người nghe.
Truyền hình là một phương tiện truyền thông quan trọng, cung cấp thông tin qua hình ảnh động và âm thanh Hiện nay, có hai loại hình truyền hình phổ biến là truyền hình số và truyền hình cáp.
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu, cho phép truy cập công cộng và bao gồm các mạng máy tính được kết nối với nhau Hệ thống này sử dụng phương thức truyền thông tin qua việc chuyển đổi gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng tiêu chuẩn.
Giao thức IP là hệ thống kết nối hàng ngàn mạng máy tính nhỏ, bao gồm các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, người dùng cá nhân và chính phủ trên toàn cầu.
Mô hình phân tích
Văn hóa- Kinh tế- Xã hội
Trang 23 Đặc điểm KGCC: Đường chính
Giới tính Tuổi Nghề nghiệp
Internet Báo in Truyền thanh Truyền hình
Quản lý, quy hoạch đô thị
Tính an toàn ở không gian công cộng
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 24
1.1 Tình hình kinh tế văn hóa Tp Hồ Chí Minh
Tp Hồ Chí Minh nằm trong toạ độ địa lý khoảng 10 0 10 – 10 0 38 vĩ độ bắc và 106 0 22’–
Tọa độ 106° 0' 54" kinh độ Đông, khu vực này được bao quanh bởi nhiều tỉnh: phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, và Tây cũng như Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
Thành phố Hồ Chí Minh, cách thủ đô Hà Nội khoảng 1.730 km, là trung tâm giao thương quan trọng tại Đông Nam Á, nằm ở ngã tư quốc tế giữa các tuyến đường hàng hải Bắc - Nam và Đông - Tây Chỉ cách bờ biển Đông 50 km, thành phố này đóng vai trò là đầu mối giao thông kết nối các tỉnh trong khu vực và là cửa ngõ quốc tế Với hệ thống cảng và sân bay lớn nhất cả nước, Cảng Sài Gòn có công suất hoạt động lên đến 10 triệu tấn mỗi năm, trong khi Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, chỉ cách trung tâm thành phố 7 km, phục vụ hàng chục đường bay quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm các quận: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Thủ Đức, Tân
Phú, Tân Bình, Phú Nhuận, Gò Vấp, Bình Tân, Bình Thạnh và các huyện: Bình Chánh, Cần
Giờ, Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè
1.1.2 Tình hình kinh tế và dân số Tp HCM
Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế trọng điểm phía Nam, ghi nhận tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất cả nước với mức tăng 10.3% vào năm 2011 Mặc dù không đạt kế hoạch đề ra và thấp hơn năm trước, nhưng con số này vẫn vượt qua mức tăng 8.6% của năm 2009 Giá trị sản xuất công nghiệp cũng tăng 11.7% so với năm trước, chỉ thấp hơn mức tăng 13.5% của năm 2010 Khu vực dịch vụ tiếp tục đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của thành phố.
273.297 tỷ đồng chiếm 54.3% GDP tăng 10.7% Trong đó: ngành thương nghiệp tăng 9.2%, ngành khách sạn nhà hàng tăng 7%, vận tải bưu điện tăng 12.1%, ngành tài chính – tín dụng tăng 12.1%
Theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động: năm 2012
TP.HCM dự kiến sẽ có 265.000 chỗ làm việc, trong đó lao động phổ thông chiếm 45% Công nhân kỹ thuật và lao động qua đào tạo chiếm 12%, trong khi lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng chiếm 30% Phần còn lại là lao động có trình độ đại học và trên đại học, chỉ chiếm 1.2%.
Dân số bình quân trên địa bàn thành phố năm 2011 ước tính 7.600 ngàn người, tăng 2.8% so với năm 2010
Năm 2012, tại Tp.HCM, số vụ phạm pháp hình sự giảm và tỷ lệ phá án tăng so với năm 2011 Tuy nhiên, tính chất và mức độ nghiêm trọng của các vụ phạm pháp hình sự không giảm mà có chiều hướng xấu hơn Gần đây, người dân Tp.HCM lo lắng khi liên tiếp xảy ra những vụ cướp giật với hành vi dã man, táo tợn Tình trạng cướp giật gia tăng nhanh chóng và bất thường đã trở thành nỗi ám ảnh và đáng báo động hơn bao giờ hết.
Cướp giật ở Sài Gòn ngày nay đã không loại trừ một ai, từ người lớn tuổi cho đến người nghèo với tính chất ngày càng nghiêm trọng
Trong một cuộc họp gần đây, báo cáo tại buổi làm việc, lãnh đạo UBND Thành phố Hồ Chí
Minh cho biết năm 2012, số vụ phạm pháp hình sự giảm, tỉ lệ phá án tăng so với năm 2011
Mặc dù có những nỗ lực trong việc giảm thiểu tội phạm, tình hình an ninh vẫn không cải thiện mà còn có chiều hướng xấu đi Gần đây, nhiều vụ cướp và cướp giật liều lĩnh, tàn bạo trên đường phố đã khiến người dân cảm thấy bất an Tình trạng cướp giật hiện nay không phân biệt đối tượng, từ người lớn tuổi đến người nghèo, với tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn.
Tình trạng cướp giật tại TP.HCM đang gia tăng nhanh chóng, trở thành nỗi ám ảnh đáng báo động Nguyên nhân chủ yếu là do sự tăng dân số không ngừng, bao gồm một lượng lớn người nhập cư khó kiểm soát, cùng với những đối tượng cai nghiện hồi gia hoặc đang trong quá trình cai nghiện ma túy tại cộng đồng.
Bọn cướp thực hiện hành vi man rợ và dã man, sẵn sàng đâm chém nạn nhân, đạp họ xuống đường, hoặc chặt tay để cướp xe Đối tượng chủ yếu là thanh thiếu niên hoặc những người nghiện ma túy, cờ bạc, đang mắc nợ, dẫn đến hành vi hiếu thắng và mất kiểm soát Họ không ngần ngại chống trả quyết liệt khi bị người khác can thiệp hoặc khi nạn nhân kêu cứu.
Xã hội hiện đang đối mặt với lỗ hổng về đạo đức, khi mức án phạt chưa đủ nặng để răn đe tội phạm Nhiều người dân, lo sợ bị liên lụy, đã thờ ơ trước các vụ cướp giật lộng hành Dù có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng tất cả đều đồng tình rằng tội phạm cướp, đặc biệt là những vụ cướp có tính chất côn đồ và manh động, đang là thách thức lớn đối với lực lượng công an và toàn xã hội.
1.1.4 Tổng quan về quận 3, quận 6 và quận 10
Quận 3 là quận trung tâm của thành phố Hồ Chí Minh, cũng thuộc khu vực Sài Gòn, Bến
Nghé nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, phía Bắc giáp quận Phú Nhuận, phía Đông Bắc giáp quận 1 với ranh giới là đường Hai Bà Trưng, và phía Đông Nam cũng giáp quận 1, được phân cách bởi đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Tây Nam giáp quận 10 qua đường Cách Mạng Tháng 8 Nam giáp đại lộ Lý Thái Tổ ngăn cách với quận 10
Từ năm 1975 trở về trước, Quận 3 là địa bàn dân cư, hoạt động kinh tế không đáng kể Qua
30 năm phát triển, hiên nay Quận 3 là một quận có các hoạt động kinh tế thuộc loại khá của
Thành phố có cấu trúc kinh tế chủ yếu dựa vào thương mại – dịch vụ và công nghiệp – tiểu công nghiệp Giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố đạt 1.146 tỷ đồng, chỉ tính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và theo giá cố định.
Doanh thu thương mại-dịch vụ của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 23.100 tỷ đồng vào năm 2005, trong khi tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 711 tỷ đồng, cao hơn 32 tỉnh Đến cuối năm 2005, quận có 15.799 cơ sở hoạt động với hơn 100.000 lao động.
Riêng số lượng doanh nghiệp là 2137, đứng hàng thứ 5 sau Quận 1 và Quận Tân Bình, Quận
Bình Thạnh, Quận Gò Vấp Quận 3 hiện có các tuyến đường giao thông quan trong như
Trang 27 đường Cách Mạng Tháng 8, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai Theo dự kiến, sẽ điều chỉnh một số tuyến giao thông so với quy hoạch chung duyệt năm 1998 gồm tuyến đường Bắc Nam trong quy hoạch chi tiết sẽ được thay thế bằng tuyến đường trên cao
Dự án Nhiêu Lộc-Thị Nghè sẽ điều chỉnh lộ giới đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa từ 35 m xuống còn 30 m Trong lĩnh vực giao thông đô thị, các tuyến đường quy hoạch đã được phê duyệt trước đây sẽ được xem xét, đánh giá nhằm giữ lại hoặc điều chỉnh, đồng thời bổ sung một số trục đường khả thi.
Quận 6 là quận ven nội thành, nằm ở phía Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh Phía Bắc ngăn cách với quận Tân Bình và quận 11 bởi rạch Lò Gốm, đường Tân Hóa và đại lộ Hồng Bàng
Phía Đông giáp ranh với quận 5 dọc theo đường Nguyễn Thị Nhỏ và đường Ngô Nhân Tịnh
Phía Nam ngăn cách với quận 8 bởi sông Bến Nghé Phía Tây giáp ranh với quận Bình Tân, có ranh giới là đường An Dương Vương
TRẢI NGHIỆM VỀ KHÔNG GIAN CÔNG CỘNG
Không gian công cộng đóng vai trò thiết yếu trong sự phát triển bền vững của đô thị Một thành phố thành công cần có hệ thống không gian công cộng chất lượng cao, với cảnh quan đẹp và bảo vệ môi trường Những không gian này không chỉ tạo dựng hình ảnh cho đô thị mà còn mang lại trải nghiệm sống phong phú cho người dân Việc xây dựng một hệ thống không gian công cộng hiệu quả là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của thành phố và từng khu vực đô thị Nghiên cứu này sẽ tập trung vào các không gian công cộng như công viên và đường phố.
2.1 TRẢI NGHIỆM CỦA NGƯỜI DÂN VỀ CÔNG VIÊN
2.1.1 Mức độ đến công viên của người dân
Bảng 1: Mức độ đến công viên của người dân
Nhóm tuổi N Điểm trung bình
Dưới 30 tuổi 81 2.9 Không có sự đồng nhất phương sai giữa các nhóm
(1: Rất thường xuyên (gần như hàng ngày) 5: Rất không thường xuyên)
Người tham gia nghiên cứu đến công viên với tần suất cao, trung bình đạt 2.8 Nhóm tuổi 50 trở lên thường xuyên ghé thăm công viên hơn so với các nhóm tuổi trẻ hơn, nhờ vào thời gian rảnh rỗi và nhu cầu thư giãn, tập thể dục hàng ngày Họ cần một không gian thoáng mát, trong lành để bảo vệ sức khỏe Công viên cũng là nơi lý tưởng để người lớn tuổi có thể trò chuyện và chia sẻ với nhau.
2.1.2 Nhận định của người dân về công viên
Biểu đồ 5: Mức độ đồng ý của người dân về các nhận định về công viên (Điểm trung bình)
(1: Hoàn toàn đồng ý 5: Hoàn toàn không đồng ý)
KGCC là điểm đến lý tưởng để nghỉ ngơi và thư giãn, với không gian xanh mát của các công viên lớn Tại đây, người dân có thể thoải mái tham gia các hoạt động như chạy bộ, vui chơi, đi dạo hoặc đơn giản là ngồi thư giãn và ngắm cảnh thiên nhiên xung quanh.
Công viên được coi là không gian lý tưởng để thư giãn, tập thể dục và tận hưởng không khí trong lành Đây cũng là nơi lý tưởng để mọi người gặp gỡ, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống.
Công viên được coi là "lá phổi của thành phố" và là địa điểm tổ chức nhiều sự kiện như lễ hội hoa và hội sách Tuy nhiên, công viên không chỉ đơn thuần là nơi để giới trẻ vui chơi, ăn uống, mà còn là chốn riêng tư cho mọi người, đặc biệt cho những cặp đôi đang yêu nhau Đồng thời, công viên cũng là không gian để buôn bán và phục vụ nhu cầu của những người tham gia các hoạt động trong đó.
Nơi thư giãn, tập thể dục, hít thở không khí trong lành Nơi để mọi người gặp nhau, chia sẻ nổi buồn, vui
Lá phổi xanh của thành phố không chỉ là không gian tổ chức các sự kiện như lễ hội hoa và hội sách, mà còn là địa điểm lý tưởng cho giới trẻ tận hưởng các hoạt động ăn chơi, ẩm thực và sinh hoạt Đây cũng là chốn riêng tư, nơi mỗi cá nhân có thể tìm thấy sự thư giãn và bình yên giữa nhịp sống hối hả của đô thị.
Nơi giành cho những người đang yêu nhauNơi có thể buôn bán nhằm phục vụ những người trong công viên
Phân tích nhân tố nhận định về không gian công cộng 6
Bảng 2: Phân tích nhân tố nhận định về không gian công cộng
Nhận định Nhân tố 1 Nhân tố 2 Nhân tố 3
Nơi để thư giãn, đi dạo, tập thể dục, hít thở không khí trong lành 0.799 -0.096 -0.090
“Lá phổi xanh” của thành phố (cung cấp
Nơi tổ chức các sự kiện (lễ hội hoa, lễ hội sách…) 0.516 0.010 0.419
Chốn riêng tư của mỗi con người (vì tuy đông người những cũng là chốn riêng tư vì không ai biết ai)
Nơi dành cho những người yêu nhau 0.007 0.678 0.148
Nơi để mọi người gặp nhau trò chuyện, chia sẻ buồn vui 0.445 0.586 -0.211
Nơi để buôn bán nhằm phục vụ những người sử dụng công viên (nước, snack…) -0.169 -0.025 0.719
Là nơi chủ yếu dành cho giới trẻ (vui chơi, ăn uống, trò chuyện, sinh hoạt tập thể…) 0.213 0.305 0.625
(Phương pháp xoay nguyên góc các nhân tố: Varimax procedure
Chỉ số KMO là một chỉ số quan trọng trong phân tích nhân tố, với giá trị KMO 7 = 0.602 cho thấy mức độ chấp nhận tạm thời Cụ thể, nếu giá trị KMO dưới 0.5 thì không chấp nhận, từ 0.5 đến 0.6 là tạm chấp nhận, từ 0.7 đến 0.8 được coi là tốt, và trên 0.9 là rất tốt.
Phân tích nhân tố (Factor analysis) là một phương pháp thống kê quan trọng, được sử dụng để tóm tắt và thu nhỏ dữ liệu Nó giúp xác định các nhân tố cơ bản từ những biến có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mang lại cái nhìn sâu sắc về cấu trúc dữ liệu.
Chỉ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) được sử dụng để đánh giá mức độ phù hợp của các yếu tố trong phân tích nhân tố Nếu trị số KMO nằm trong khoảng từ 0.5 đến 1, thì dữ liệu đủ điều kiện để thực hiện phân tích nhân tố Ngược lại, nếu trị số KMO nhỏ hơn 0.5, khả năng phân tích nhân tố sẽ không thích hợp với dữ liệu.
Bartlett's Test of Sphericity: Approx Chi-Square2.667; df(; Sig.= 0.000; 4 nhân tố giải thích được 55.699 % trường hợp)
Phương sai chiếm 22.297% cho thấy rằng công viên đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu chung của xã hội, bao gồm không gian thư giãn, đi dạo, tập thể dục và tận hưởng không khí trong lành Công viên được coi là “lá phổi xanh” của thành phố, cung cấp oxy và cải thiện chất lượng không khí.
Carbonic…) ; nơi tổ chức các sự kiện (lễ hội hoa, lễ hội sách…)
Phương sai chiếm 18.803% cho thấy công viên đáp ứng nhu cầu riêng của từng cá nhân, tạo ra không gian riêng tư cho mọi người, mặc dù có đông người xung quanh Đây là nơi lý tưởng cho các cặp đôi, cũng như là chốn để mọi người gặp gỡ, trò chuyện và chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống.
Phương sai chiếm 14.599% cho thấy công viên được thiết kế để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhóm đối tượng, bao gồm không gian buôn bán phục vụ người sử dụng như nước và snack, cũng như là điểm đến chủ yếu cho giới trẻ để vui chơi, ăn uống, trò chuyện và sinh hoạt tập thể.
- Nhận định về công viên theo nhóm tuổi (Bảng 2 phần phụ lục)
Giữa 3 nhóm tuổi có sự khác biệt về nhận định công viên là nơi hướng đến nhu cầu chung của toàn xã hội (Nhân tố 1: F=6.2; sig=0.002); nhận định công viên là nơi hướng đến đáp ứng nhu cầu cho từng cá nhân trong xã hội (Nhân tố 2: F=6.6; sig =0.002), nhóm trên 50 tuổi có mức độ đồng ý cao hơn 2 nhóm còn lại; nhưng không có sự khác biệt về nhận định công viên là nơi hướng đến đáp ứng cho từng nhóm đối tượng cụ thể (Nhân tố 3: F=0.87; sig:
Người lớn tuổi thường cần không gian yên tĩnh và có cái nhìn thoáng hơn về không gian xã hội so với người trẻ Trong khi đó, giới trẻ năng động và dễ hòa nhập hơn, nhưng lại có quan điểm khắt khe hơn về không gian công cộng, đặc biệt là các công viên Sự khác biệt này tạo nên những quan niệm đa dạng về cách sử dụng và trải nghiệm không gian chung.
- Nhận định về công viên theo quận (Bảng 3 phần phụ lục)
Người dân ở ba quận đều có sự đồng thuận về vai trò của công viên trong việc phục vụ nhu cầu chung của xã hội, với chỉ số F=1.884 và sig=0.154 Họ cũng nhận thấy công viên đáp ứng nhu cầu cá nhân trong xã hội (F=0.96; sig=0.384) và nhu cầu của các nhóm đối tượng cụ thể (F=1.69; sig=0.187).
- Nhận định công viên theo giới tính (Bảng 4 phần phụ lục)
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
3.1 Mức độ theo dõi các phương tiện TTĐC
Bảng 25: Mức độ theo dõi các PTTTĐC
Các phương tiện TTĐC Điểm trung bình
(1:Rất thường xuyên (Gần như hằng ngày) 5:Rất không thường xuyên)
Người dân có mức độ theo dõi truyền hình là nhiều nhất, tiếp theo là internet, sau đó là báo giấy và cuối cùng là truyền thanh
Mức độ theo dõi các PPTTĐC theo nhóm tuổi
Bảng 26 Mức độ theo dõi các PPTTĐC theo nhóm tuổi
Các PPTTĐC Nhóm tuổi N Điểm trung bình F Sig
Theo dõi internet Dưới 30 tuổi 81 1.7
Theo dõi báo in Dưới 30 tuổi 81 2.6
(1:Rất thường xuyên (Gần như hằng ngày) 5:Rất không thường xuyên)
Không có sự khác biệt giữa ba nhóm tuổi về mức độ theo dõi thông tin trên truyền thanh Tuy nhiên, có sự khác biệt rõ rệt về mức độ đọc báo in (F=4.87; Sig = 0.009), internet (F=8; Sig = 0.001) và truyền hình (F=1.1; Sig = 0.001) Đặc biệt, nhóm dưới 30 tuổi có mức độ đọc báo in thấp nhất.
3.2 Những thông tin được người dân theo dõi trên các phương tiện truyền thông đại chúng
Bảng 27: Những thông tin được người dân theo dõi trên các PPTTĐC
Người dân có xu hướng theo dõi thông tin khác nhau trên các phương tiện truyền thông đại chúng Cụ thể, qua truyền thanh, họ thường quan tâm đến các chương trình giải trí và thời sự trong nước Trên internet, sự chú ý chủ yếu tập trung vào các chương trình giải trí Trong khi đó, truyền hình thu hút người xem với cả chương trình giải trí lẫn thời sự Đối với báo in, mối quan tâm chủ yếu là về tội phạm và an ninh công cộng.
3.3 Mức độ phản ánh lượng thông tin phản ánh an toàn không gian công cộng trên các
Bảng 28: Mức độ phản ánh thông tin về an toàn ở không gian công cộng trên các PTTTĐC
Những thông tin được phản ánh trên các PPTTĐC
Có đến 78.2% trong tổng số 220 ý kiến cho rằng các PTTTĐC chỉ phản ánh một phần nào đó thông tin trong cuộc sống hàng ngày
Các chương trình giải trí
3.5 Tương quan giữa mức độ cảm nhận về sự không an toàn ở không gian công công của người dân và việc đưa tin của các PTTTĐC về an toàn ở không gian công cộng
Bảng 29 thể hiện mối tương quan giữa cảm nhận của người dân về mức độ không an toàn tại không gian công cộng và các thông tin về an toàn được phản ánh trên hệ thống thông tin địa chính Sự kết nối này giúp hiểu rõ hơn về cảm xúc và nhận thức của cộng đồng đối với an toàn trong các khu vực công cộng.
Mức độ cảm nhận về sự không an toàn trong không gian công cộng của người dân có mối liên hệ chặt chẽ với cách họ tiếp nhận thông tin về an toàn trong các khu vực này Việc hiểu rõ thông tin an toàn sẽ ảnh hưởng đến cảm giác an toàn của cộng đồng, từ đó tạo ra một môi trường công cộng an toàn hơn.
Người dân ngày càng lo lắng về an toàn nơi công cộng khi tiếp nhận thông tin từ các PTTTĐC, dẫn đến cảm giác sinh mạng bị đe dọa mỗi khi ra ngoài Điều này cho thấy rằng các PTTTĐC có ảnh hưởng rõ rệt đến mức độ lo âu của người dân trong những tình huống này.
3.6 Cảm nhận khi nghe các thông tin được phản ánh trên các PTTTĐC và theo các nhóm
Cảm nhận khi nghe các thông tin được phản ánh về an toàn không gian cộng cộng trên các phương tiện truyền thông đại chúng theo nhóm tuổi
Bảng 30: Cảm nhận khi nghe, đọc những thông tin được phản ánh trên các PPTTĐC theo nhóm tuổi
Hiện tượng Cảm nhận khi nghe những thông tin về an toàn ở không gian công cộng được phản ánh trên các phương tiện truyền thông đại chúng
(1.Rất lo lắng 5.Hoàn toàn không lo lắng)
Khi ra đường cảm thấy sinh mạng mình bị đe dọa hoặc không an toàn hay không
Nhóm tuổi N Điểm trung bình F Sig
(1:Rất lo lắng 5: Hoàn toàn không lo lắng)
Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa ba nhóm tuổi (F= 4; Sig = 0.018) về cảm nhận khi tiếp nhận thông tin từ các PTTTĐC Đặc biệt, nhóm tuổi từ 30 đến 49 thể hiện mức độ lo lắng cao hơn đối với các thông tin này so với hai nhóm tuổi còn lại.
Cảm nhận khi nghe các thông tin được phản ánh trên các PPTTĐC theo giới tính
Bảng 31 Cảm nhận khi nghe, đọc những thông tin về an ninh công cộng được phản ánh trên các PPTTĐC theo giới tính
Giới tính N Điểm trung bình T Sig
(1:Rất lo lắng 5: Hoàn toàn không lo lắng)
Nghiên cứu cho thấy phụ nữ có mức độ lo lắng cao hơn nam giới (T=1.7; Sig=0.017) Tiến sĩ Cordelia Fine, tác giả cuốn "Ảo giác về giới tính", cho rằng sự khác biệt giữa hai giới không chỉ do cấu trúc não bộ hay vai trò sinh học mà còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố xã hội và môi trường Đặc biệt, qua các phương tiện truyền thông đại chúng, tâm lý của phụ nữ khi tiếp nhận thông tin có xu hướng quan tâm và lo lắng hơn.
3.7 Mức độ đồng ý với các nhận định về những tin tức về an toàn ở không gian cộng cộng được phản ánh trên các phương tiện TTĐC
Bảng 32: Mức độ đồng ý về các nhận định về an toàn ở không gian cộng cộng được phản ánh trên các PTTTĐC
Các nhận định Điểm trung bình
Không quan tâm, gạt bỏ ra ngoài tai 3.5
Cho là các PTTTĐC phóng đại, nói quá 2.9
Xem đó là chuyện bình thường ở đô thị 2.9
Lúc đầu có lo lắng nhưng sau đó thì quên ngay 2.8
Mỗi khi có sự kiện tương tự thường nhớ lại và liên hệ với những tin tức trước đó
(1: Hoàn toàn đúng 5: Hoàn toàn không đúng)
Người dân đô thị thường cho rằng thông tin trên các PTTTĐC có phần “phóng đại, nói quá” và cho rằng đó chỉ là “chuyện bình thường ở đô thị”.
Nhiều người không hoàn toàn tin tưởng vào thông tin, với cảm giác lo lắng chỉ xuất hiện ban đầu nhưng nhanh chóng bị quên lãng Mỗi khi có sự kiện tương tự xảy ra, họ thường nhớ lại và liên hệ với những tin tức trước đó Điều này cho thấy rằng các thông tin này không có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự lo lắng của người dân khi ra ngoài.
So sánh giữa các nhóm tuổi cho thấy chỉ có sự khác biệt đáng kể trong nhận định rằng “mỗi khi có sự kiện tương tự, thường nhớ lại và liên hệ với những tin tức trước đó” (F= 4.1; Sig =0.017) Nhóm tuổi từ
Người từ 50 tuổi trở lên (ĐTB: 1.8) thường có khả năng ghi nhớ tốt hơn so với hai nhóm tuổi trẻ hơn, đồng thời họ cũng có xu hướng liên tưởng đến những sự kiện trong quá khứ nhiều hơn Đánh giá của cộng đồng về độ tin cậy của thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng cũng là một yếu tố quan trọng cần xem xét.
Đôi khi, sự thiếu tin tưởng vào báo chí khiến chúng ta cảm thấy lo lắng và đề phòng khi ra ngoài Cảm giác này mạnh đến mức, ngay cả khi được hỏi đường, nhiều người cũng không dám trả lời.
Mỗi sự kiện có thể được diễn đạt khác nhau ở các nguồn tin khác nhau, vì vậy việc lựa chọn các phương tiện truyền thông đáng tin cậy như báo Tuổi Trẻ và An ninh Nhân dân là rất quan trọng Đồng thời, người đọc nên hạn chế tiếp cận những tin tức từ các báo lá cải trên internet để đảm bảo thông tin chính xác và đáng tin cậy.
Câu nói “Nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm” phản ánh thực tế rằng khi các phương tiện truyền thông đưa ra thông tin sai lệch hoặc phóng đại vấn đề, điều này không gây ngạc nhiên.
3.8 Mức độ đồng ý của về những nhận định liên quan đến việc các PTTTĐC liên tục đưa tin về các hiện tượng trên đường phố
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Kiểm định giả thuyết nghiên cứu
Khi so sánh kết quả nghiên cứu với những giả thuyết ban đầu chúng tôi đưa ra nhận xét:
Giả thuyết 1: Nhóm cao tuổi đánh giá cao việc giữ gìn tính riêng tư tại không gian công cộng hơn nhóm người trẻ tuổi
Nghiên cứu sử dụng kiểm định ANOVA cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm tuổi về mức độ đồng ý với nhận định “công viên là chốn riêng tư của mỗi con người” với giá trị F=6.
Sig=0.003) Nhóm cao tuổi đánh giá cao trong việc giữ gìn tính riêng tư tại không gian công cộng hơn nhóm trẻ tuổi
Nhóm cao tuổi có xu hướng đánh giá cao việc bảo vệ tính riêng tư trong không gian công cộng hơn so với nhóm người trẻ tuổi.
Giả thuyết 2 cho rằng việc chứng kiến hoặc trải nghiệm trực tiếp tai nạn giao thông có ảnh hưởng lớn đến cảm nhận của người dân về mức độ an toàn trong không gian công cộng, vượt trội hơn so với các yếu tố khác.
Trong một cuộc khảo sát với 220 người, đã thu thập được 713 ý kiến về cảm giác bất an trong giao thông Kết quả cho thấy, yếu tố chính gây lo ngại nhất là ý thức tham gia giao thông kém của người dân, chiếm 21.7% với 173 ý kiến Tiếp theo, tai nạn giao thông cũng là một mối bận tâm lớn, với 130 ý kiến, tương đương 18.2% Điều này cho thấy ý thức tham gia giao thông kém là yếu tố tác động mạnh nhất đến cảm giác bất an của người dân tại khu vực KGCC.
Như vậy giả thuyết ban đầu mà chúng tôi đưa ra là sai
Giả thuyết 3: Càng gần trung tâm, không gian công cộng (công viên, đường phố…) càng mang tính an toàn cao hơn so với các khu vực vùng ven
Công viên ở quận 3 có tình trạng an ninh tốt hơn so với hai quận còn lại, với điểm trung bình cho các hiện tượng tiêu cực như mua bán mại dâm là 4.1, trong khi quận 6 và quận 10 chỉ đạt 3.7 Tương tự, tình trạng tụ tập đánh nhau tại quận 3 cũng an toàn hơn, với điểm trung bình 4, so với quận 6 và quận 10 lần lượt là 3.4 và 3.7 Qua kiểm định ANOVA, quận 3 cho thấy mức độ an toàn cao hơn rõ rệt trong ba công viên được so sánh.
Trang 74 quận còn lại cụ thể là công viên quận 3 điểm trung bình là 4.9 và 2 quận 6 và 10 tương ứng với điểm trung bình là 4.85
Xét về không gian trên đường phố:
Theo kiểm định ANOVA, không có sự khác biệt rõ ràng về mức độ cướp giật giữa các quận, với tất cả đều ở mức 4, tức là không thường xuyên xảy ra trong vài năm gần đây Tuy nhiên, quận 6 ghi nhận tình trạng cướp giật cao nhất trong ba quận được khảo sát Điều này xác nhận giả thuyết ban đầu rằng các khu vực gần trung tâm, như công viên và đường phố, có mức độ an toàn cao hơn so với các khu vực ven đô.
Giả thuyết 4: Mức độ theo dõi tin tức của người dân về an ninh tại không gian công cộng qua Internet cao hơn những phương tiện truyền thông khác
Theo bảng số liệu, internet đã thu hút sự quan tâm của người dân đối với các chương trình giải trí với tỷ lệ 25% Trong khi đó, báo in lại ghi nhận số lượng ý kiến cao nhất về tin tức an ninh tại KGCC, với 111 ý kiến, chiếm 22.2% trong tổng số phản hồi về các phương tiện truyền thông đại chúng.
Giả thuyết của chúng tôi cho rằng người dân theo dõi an toàn tại không gian công cộng qua Internet nhiều hơn các phương tiện truyền thông khác là không chính xác.
Giả thuyết 5 đề xuất rằng có sự liên hệ giữa cảm nhận của người dân về mức độ không an toàn ở không gian công cộng và cách họ tiếp nhận thông tin về an toàn không gian công cộng qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
Nghiên cứu cho thấy có mối tương quan rõ rệt giữa mức độ cảm nhận về sự không an toàn ở không gian công cộng và thông tin an toàn được phản ánh trên các phương tiện truyền thông đại chúng, với hệ số R = 0.249 và Sig = 0.001 Cụ thể, khi người dân tiếp nhận thông tin về an toàn từ các phương tiện truyền thông, mức độ lo lắng của họ về sự an toàn khi ra đường tăng lên Điều này chỉ ra rằng các phương tiện truyền thông đại chúng có ảnh hưởng đáng kể đến cảm giác an toàn của người dân trong không gian công cộng.
Giả thuyết chúng tôi đưa ra là đúng
Không gian công cộng (KGCC) là bộ mặt chung của thành phố, phục vụ cho tất cả mọi người Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa đang tạo ra nhiều thách thức cho KGCC, đặc biệt là vấn đề an toàn Qua khảo sát người dân tại quận 3, quận 6 và quận 10, chúng tôi đã rút ra một số kết luận quan trọng về tình trạng an toàn trong các khu vực không gian công cộng này.
KGCC là một không gian tập trung đông người, nơi mỗi cá nhân có những cảm nhận khác nhau Ấn tượng tích cực thường đi kèm với thái độ thân thiện và sự giao lưu tốt đẹp giữa mọi người Ngược lại, nếu trải nghiệm ban đầu không tốt hoặc có sự cố tiêu cực xảy ra, cảm giác không an toàn sẽ khiến chúng ta trở nên đề phòng và e dè Công viên, nơi lý tưởng để hít thở không khí trong lành, rèn luyện sức khỏe và thư giãn, cũng là không gian để kết nối bạn bè và chia sẻ thông tin Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, người dân thường phải đối mặt với những lo lắng về an toàn, như ngập nước, cướp giật, lừa đảo và tai nạn giao thông, khiến họ cảm thấy bất an khi xuất hiện ở không gian công cộng.
Phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho người dân, ngay cả khi họ không tham gia vào không gian công cộng Thông qua các kênh truyền thông, người dân có thể tiếp cận thông tin xã hội và tin tức từ những khu vực xa lạ Nhiệm vụ của phương tiện truyền thông là cập nhật thông tin thời sự, văn hóa và sự kiện, giúp mọi người nắm bắt được những diễn biến quan trọng trong xã hội.
Trang 76 truyền thông cũng cảnh báo cho người dân những hiểm họa có thể xảy ra nơi không gian cộng cộng, hướng dẫn cho người dân những phương pháp để đề phòng với những tệ nạn nơi công cộng, cụ thể hơn với đề tài này chúng tôi muốn nói là trong công viên và khi tham gia giao thông Từ đó người dân cẩn thận và cảnh giác hơn khi ra ngoài Một mặt, ta cũng thấy rằng phải chăng phương tiện truyền thông đại chúng cũng là một yếu tố tác động đến nỗi lo lắng sợ hãi của người dân mỗi khi tham gia vào không gian công cộng Có thể trên thực tế những thông tin mà họ chứng kiến thường ngày làm họ sợ một phần nào đó, nhưng việc các phương tiện truyền thông đồng loạt đưa tin tức về sự việc đó nó làm tăng thêm sư lo lắng, hoang mang trong lòng, trong suy nghĩ người dân Dẫn đến việc người dân khi ra đường luôn e ngại và đề phòng lẫn nhau, việc ai người ấy làm sẽ an toàn cho bản thân hơn và càng ngày lối suy nghĩ càng ăn sâu vào tâm thức của mỗi con người ở đô thị, rồi mọi người đánh đồng đó là lối sống của người đô thị, do yếu tố kinh tế tác động, do đạo đức bị xói mòn
Không gian công cộng (KGCC) ban đầu được thiết kế để tạo điều kiện cho mọi người gặp gỡ và trao đổi thông tin Tuy nhiên, hiện nay, KGCC không còn an toàn cho người dân khi nhiều đối tượng xấu lợi dụng sự tập trung đông người để thực hiện các hành vi gian trá, gây hại cho cộng đồng Thực trạng này, kết hợp với thông tin từ PTTTĐC, đã khiến người dân cảm thấy hoang mang và lo sợ cho sự an toàn của bản thân và cuộc sống xung quanh.