Giới thiệu Bến Tre và ngành dừa Bến Tre
Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp nằm trong vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, tọa lạc tại châu thổ của sông Tiền Giang Tỉnh này được hình thành và phát triển trên ba cù lao lớn, tạo nên đặc trưng riêng cho vùng đất này.
Cù Lao An Hóa, Cù lao Bảo và Cù lao Minh
Bến Tre là tỉnh nằm ở miền Tây Nam Bộ, giáp với tỉnh Tiền Giang ở phía Bắc và Tây Bắc, tỉnh Vĩnh Long ở phía Tây Nam, tỉnh Trà Vinh ở phía Nam, và biển Đông ở phía Đông Tỉnh này cách TP Hồ Chí Minh 86 km và TP Cần Thơ 124 km, gần trục Quốc lộ 1.
Tỉnh Bến Tre có diện tích 2.322 km², bao gồm 8 huyện, 1 thành phố và 164 xã, phường, thị trấn, với dân số khoảng 1,26 triệu người, trong đó 51,5% là nữ và 64,5% đang ở độ tuổi lao động Bến Tre sở hữu nguồn nhân lực phát triển, đứng thứ 27/61 tỉnh, thành về Chỉ số Phát triển nguồn nhân lực (HDI), với tỷ lệ người lớn biết chữ đạt 98% Hàng năm, tỉnh này đào tạo khoảng 30.000 lao động và tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề là 38%.
Bến Tre là một tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng, với GDP đạt khoảng 7,23% vào năm 2009 và thu nhập bình quân đầu người đạt 790 USD Tỉnh này cũng sở hữu chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) cao, xếp thứ 14/64 tỉnh, thành phố năm 2011 và tăng hạng lên vị trí 10/63 vào năm 2012.
Bến Tre sở hữu điều kiện tự nhiên lý tưởng cho nông nghiệp nhờ vị trí nằm trong vùng châu thổ cửa sông Mekong, nơi hàng năm được bồi đắp phù sa, tạo ra đất nông nghiệp màu mỡ Khu vực này còn là nơi giao thoa giữa hai chế độ thủy văn sông và biển, hình thành các tiểu vùng sinh thái mặn, lợ và ngọt, góp phần vào sự đa dạng sinh thái, cây trồng và thủy sản, giúp thích ứng tốt với các hệ sinh thái khác nhau.
Ngành kinh tế chính của tỉnh Bến Tre tập trung vào thủy sản và kinh tế vườn, với các sản phẩm chủ lực bao gồm thủy hải sản đánh bắt và nuôi trồng ven biển như cá biển, tôm biển, nghêu và tôm sú, cùng với cá nước ngọt và các sản phẩm từ dừa Ngoài ra, tỉnh cũng nổi bật với các loại trái cây, lúa, mía, gia súc và gia cầm Trong lĩnh vực nông nghiệp, dừa, cây ăn trái và lúa gạo là những loại cây trồng chính của Bến Tre.
Tỉnh Bến Tre, với nền tảng kinh tế nông nghiệp chủ đạo, đang tập trung cải thiện và phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp chính Điều này nhằm thúc đẩy phát triển nông thôn toàn diện, đồng thời tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho khu vực nông thôn Những nỗ lực này là nền tảng cho công cuộc phát triển kinh tế, đa dạng hóa sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng tới công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Tỉnh Bến Tre không chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà còn tập trung vào việc xóa đói giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội, hướng tới sự phát triển bền vững Để đạt được mục tiêu này, tỉnh đã đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ nông nghiệp, tạo việc làm cho người nghèo và hỗ trợ phát triển các ngành nông sản Đồng thời, Bến Tre thúc đẩy phát triển kinh doanh liên kết với cộng đồng nghèo, nhằm nâng cao nhận thức, khả năng hành động và sự tham gia của họ, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho người nghèo.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu giá trị kinh tế ngành dừa của tỉnh Bến Tre nhằm mục tiêu hiểu rõ giá trị kinh tế của dừa và các sản phẩm từ dừa, cũng như sự vận hành hiện tại và các quan hệ kinh tế giữa các tác nhân tham gia Bên cạnh đó, nghiên cứu còn tập trung vào các sản phẩm chế biến đa dạng từ cây dừa, khả năng tạo ra việc làm, thu nhập và đóng góp kinh tế cho địa phương Cuối cùng, nghiên cứu đề xuất xây dựng hệ thống chiến lược phát triển ngành dừa Bến Tre một cách bền vững để làm cơ sở cho các giải pháp phù hợp.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu Giá trị kinh tế ngành dừa của tỉnh Bến Tre sử dụng một số phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng khác nhau
Nghiên cứu định tính về ngành dừa ở Bến Tre nhằm tìm hiểu bản chất, quá trình vận động và tương tác giữa các tác nhân, cùng với hệ thống chính sách ảnh hưởng đến ngành này Các phương pháp được sử dụng bao gồm chọn mẫu có mục đích, thu thập dữ liệu mở, phân tích văn bản và số liệu thứ cấp Trong giai đoạn thu thập dữ liệu, nghiên cứu áp dụng phỏng vấn chuyên gia, nghiên cứu tình huống và quan sát Đối với phương pháp định lượng, nghiên cứu sử dụng các công cụ điều tra thống kê, phân tích chi phí – lợi nhuận và phân tích giá trị gia tăng.
Phương pháp chọn mẫu điều tra
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất để thu thập thông tin từ nông dân trồng dừa ở tỉnh Bến Tre do một số lý do thực tiễn Đầu tiên, tổng thể nghiên cứu là nông dân, một nhóm gần như không xác định, khiến việc lập danh sách khung mẫu trở nên khó khăn Thứ hai, việc tiếp xúc với nhóm này yêu cầu xây dựng sự quen biết và tin cậy, do đó mẫu quan sát không thể được chọn ngẫu nhiên hoàn toàn Cuối cùng, các doanh nghiệp thường bảo vệ dữ liệu kinh doanh như một bí mật, làm giảm khả năng đảm bảo độ tin cậy và tính đại diện của nguồn số liệu, từ đó ảnh hưởng đến khả năng phỏng đoán số liệu tổng thể.
Vì các lý do trên, nhóm nghiên cứu quyết định áp dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất Các bước chọn mẫu được tiến hành như sau:
1 Căn cứ trên khả năng thực hiện, kinh phí và quỹ thời gian cho phép, xác lập cỡ mẫu cần thiết
Huyện đại diện cho vùng trồng dừa quy mô lớn của Bến Tre bao gồm các huyện Mỏ Cày Nam, Giồng Trôm, Châu Thành và một số xã thuộc huyện Bình Đại.
Chọn xã đại diện cho vùng trồng dừa tập trung của từng huyện mục tiêu, với số lượng xã thay đổi tùy theo quy mô diện tích dừa của từng huyện Các huyện có diện tích dừa lớn sẽ có nhiều xã đại diện hơn, đảm bảo phản ánh đúng tiềm năng phát triển của cây dừa trong khu vực.
Mỏ Cày Nam và Giồng Trôm là hai xã được lựa chọn, trong khi các huyện có diện tích dừa ít hơn như Mỏ Cày Bắc, Châu Thành và Bình Đại chỉ chọn một xã mỗi huyện.
Nhóm nghiên cứu đã áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện kết hợp với chọn mẫu theo kinh nghiệm để khảo sát các hộ thu gom, thương lái, cơ sở sơ chế trái dừa và doanh nghiệp chế biến sản phẩm dừa Mẫu được phân bố một cách hợp lý nhằm đảm bảo tính đại diện cho các đối tượng nghiên cứu.
- 10 hộ thương lái trung gian (thu gom cấp 1, thu gom cấp 2)
- 5 cơ sở thu gom – sơ chế dừa trái
- 5 cơ sở than thiêu kết
- 5 cơ sở sơ chế xơ dừa, mụn dừa
- 3 cơ sở chế biến thạch dừa
- 2 cơ sở chế biến kẹo dừa
- 1 cơ sở chế biến hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa
- và 3 nhà máy chế biến các sản phẩm dừa xuất khẩu
Dữ liệu và thông tin được thu thập qua nhiều phương pháp, bao gồm phỏng vấn bằng bảng câu hỏi đã chuẩn bị sẵn, phỏng vấn trực tiếp, ghi chép thông tin định tính và phỏng vấn chuyên gia Sau đó, các thông tin này sẽ được tổng hợp và phân tích để rút ra những kết luận giá trị.
Cây dừa là cây lâu năm, do đó, chi phí sản xuất được chia thành hai giai đoạn: trồng mới và thu hoạch Chi phí đầu tư trong giai đoạn trồng mới sẽ được khấu hao và phân bổ cho các năm thu hoạch trong suốt vòng đời kinh tế của cây dừa.
Cây dừa công nghiệp thường bắt đầu cho trái sau 4-5 năm trồng, với thời điểm ổn định bắt đầu từ năm thứ 5 Nghiên cứu này xem xét đầu tư cơ bản trong trồng dừa trong 5 năm đầu tiên, với các chi phí được khảo sát tại thời điểm điều tra.
Cây dừa có tuổi thọ cao, với kết quả điều tra tại tỉnh Bến Tre cho thấy tuổi trung bình là 18,6 năm và tối đa lên đến 56 năm Giống dừa ta ở Bến Tre có tuổi thọ khoảng 50-60 năm, nhưng trong kinh doanh cây công nghiệp lâu năm như cà phê, điều, tiêu, cao su, thời gian khấu hao thường dao động từ 10-20 năm Nghiên cứu này xác định thời gian khấu hao cơ bản cho cây dừa là 20 năm.
Giới thiệu nội dung báo cáo
Báo cáo gồm phần Mở đầu và 5 chương nội dung, trong đó Chương 2 tổng quan tình hình sản xuất và tiêu thụ dừa toàn cầu, cung cấp cái nhìn tổng quát về ngành dừa Chương 3 phân tích đặc điểm của ngành dừa Việt Nam, đặc biệt là Đồng Bằng Sông Cửu Long và tỉnh Bến Tre Chương 4 tập trung vào giá trị kinh tế của ngành dừa Bến Tre, trong khi Chương 5 thảo luận về các đóng góp kinh tế - xã hội của ngành này Cuối cùng, Chương 6 đề xuất các chiến lược nâng cao giá trị kinh tế và khuyến cáo chính sách nhằm phát triển bền vững ngành dừa Bến Tre trong tương lai.
Tình hình sản xuất dừa trên thế giới
Diện tích
Theo FAO (2012), toàn cầu có khoảng 11,86 triệu ha đất canh tác dừa, chủ yếu phân bố ở khu vực nhiệt đới và cận xích đạo, từ Đông sang Tây bán cầu Cây dừa tập trung nhiều nhất ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông Nam Á với 60,89%, tiếp theo là Nam Á (19,74%) và Châu Đại Dương (4,6%), trong khi Châu Mỹ có tỷ lệ thấp hơn.
Các quốc gia trồng dừa lớn nhất thế giới bao gồm Brazil, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Ấn Độ, Sri Lanka, Papua New Guinea và Vanuatu Brazil dẫn đầu ở khu vực Mỹ La Tinh với 2,79% diện tích dừa toàn cầu, trong khi các đảo quốc Caribbean đóng góp 0,97% và Trung Quốc, chủ yếu là đảo Hải Nam, chiếm 0,24% Đông Nam Á có nhiều quốc gia trồng dừa đáng kể, trong khi Nam Á chủ yếu là Ấn Độ và Sri Lanka Ở Châu Đại Dương, Papua New Guinea và Vanuatu là hai nơi trồng dừa nhiều nhất Các quốc gia và lãnh thổ còn lại đóng góp 15,4% diện tích dừa toàn cầu.
Các quốc gia có diện tích canh tác dừa lớn nhất thế giới bao gồm Philippines (28,7%), Indonesia (27,2%) và Ấn Độ (16%), với tổng diện tích dừa của ba nước này chiếm tới 71,9% toàn cầu Ngoài ra, một số quốc gia khác như Sri Lanka (3,3%), Brazil (2,4%), Thái Lan (2,0%), Papua New Guinea (1,8%) và Malaysia (1,4%) cũng có diện tích trồng dừa nhưng đều dưới 1 triệu ha Các quốc gia còn lại sở hữu diện tích dừa không vượt quá 1% tổng diện tích dừa thế giới.
Dừa là cây lâu năm, thích nghi với những vùng khí hậu đặc thù, dẫn đến diện tích canh tác dừa tương đối ổn định và ít biến động Từ năm 2000 đến nay, sự phát triển của cây dừa vẫn giữ được tính bền vững trong các vùng trồng.
Năm 2009, diện tích trồng dừa trên toàn cầu chỉ tăng 10,36%, trong đó khu vực Đông Nam Á ghi nhận mức tăng cao nhất với 12,72% Ngược lại, hai khu vực có sự suy giảm diện tích dừa là Caribbean và Châu Đại Dương.
Năng suất và sản lượng
Khu vực Đông Nam Á có năng suất nông nghiệp vượt trội, đạt 66% sản lượng toàn cầu mặc dù chỉ chiếm 60,89% diện tích Điều này cho thấy tiềm năng phát triển nông nghiệp mạnh mẽ của khu vực này so với Nam Á.
Trên toàn cầu, 13 trái dừa tương đương với năng suất trung bình chung, đóng góp 20% sản lượng trong khi chỉ chiếm 19,74% diện tích trồng Các khu vực khác đều có năng suất thấp hơn mức trung bình Ba quốc gia dẫn đầu về diện tích trồng dừa là Philippines, Indonesia và Ấn Độ, cùng nhau tạo ra 76,8% tổng sản lượng dừa trên thế giới.
Các vùng Đông Nam Á, Nam Á và Châu Đại Dương đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển bền vững ngành dừa toàn cầu Đây là những khu vực có quy mô canh tác lớn và truyền thống lâu đời trong việc trồng trọt và chế biến sản phẩm từ dừa Nhiều quốc gia hàng đầu về sản xuất, chế biến và cung cấp sản phẩm dừa cho thị trường thế giới chủ yếu tập trung ở Đông Nam Á và Nam Á.
Hình 2-1 Phân bổ diện tích canh tác dừa trên thế giới năm 2012 theo các vùng địa lý (%)
Hình 2-2 Diễn biến diện tích canh tác dừa thế giới trong giai đoạn 2000-2009 (ha)
Hình 2-3 Phân bố sản lượng dừa trồng theo khu vực địa lý (%)
Tình hình tiêu thụ và thương mại các sản phẩm dừa trên thế giới
Cơm dừa
Hàng năm, các quốc gia trồng dừa trên thế giới sản xuất hơn 5 triệu tấn cơm dừa, với sản lượng ổn định từ 5,1 đến 5,9 triệu tấn Phần lớn cơm dừa được sử dụng để ép dầu, chiếm hơn 95% tổng sản lượng Do đó, lượng cơm dừa được thương mại hóa trên thị trường toàn cầu rất thấp, với khối lượng nhập khẩu chỉ dao động từ 70 tấn.
130 ngàn tấn/năm Số liệu này có chênh lệch nhất định so với thống kê của
FAOSTAT (2011) Theo nguồn này, khối lượng nhập khẩu cơm dừa của 20 quốc gia nhập cơm dừa nhiều nhất thế giới là 165,44 ngàn tấn (năm 2008) Tương tự như vậy,
Theo USDA, khối lượng xuất khẩu cơm dừa của Mỹ dao động từ 70.000 đến 150.000 tấn mỗi năm Trong khi đó, dữ liệu từ FAOSTAT cho thấy vào năm 2008, 20 quốc gia xuất khẩu cơm dừa nhiều nhất đạt tổng cộng 135.380 tấn.
Hình 2-4 Diễn biến giá cơm dừa trong giai đoạn 2009-2013 (APCC)
Trong số 20 quốc gia xuất khẩu cơm dừa lớn nhất, Papua New Guinea dẫn đầu với khối lượng 32,6 ngàn tấn mỗi năm, tiếp theo là Solomon.
Islands (28 ngàn tấn), Indonesia đứng thứ ba (26,11 ngàn tấn), Ấn Độ đứng thứ tư
(13,578 ngàn tấn), Sri Lanka đứng thứ năm (13,313 ngàn tấn) và Bỉ đứng thứ sáu
Papua New Guinea và Solomon Islands xuất khẩu một lượng lớn sản phẩm thô từ dừa, với tổng khối lượng lên đến 10,406 ngàn tấn Nguyên nhân có thể do hai quốc gia này không phát triển mạnh ngành công nghiệp chế biến dừa.
Trong số 20 quốc gia hàng đầu thế giới về nhập khẩu cơm dừa, Philippines đứng đầu với khối lượng 87,2 ngàn tấn, theo sau là Malaysia với lượng nhập khẩu vượt 10 ngàn tấn mỗi năm.
(19,34 ngàn tấn), Bangladesh (18 ngàn tấn), và Pakistan (15,657 ngàn tấn)
Philippines nhập khẩu cơm dừa có thể để phục vụ cho ngành chế biến dầu dừa của mình
Trong những năm gần đây, nhu cầu dầu dừa toàn cầu đã tăng trở lại, kéo theo giá cơm dừa nguyên liệu cũng có xu hướng tương tự Từ năm 2010 đến giữa năm 2013, giá cơm dừa xuất khẩu từ Philippines và Indonesia (giá CIF châu Âu) đã tăng lên hơn 1.000 USD/tấn Tuy nhiên, giá đã giảm xuống dưới 450 USD/tấn vào cuối quý 1/2010, trước khi tăng trở lại và đạt đỉnh khoảng 1.400 USD/tấn vào tháng 4/2012 Kể từ quý 2/2012, giá cơm dừa đã giảm nhanh nhưng vẫn duy trì ở mức cao hơn 1.000 USD/tấn.
Dầu dừa
Dầu dừa, được chiết xuất từ cơm dừa với tỷ lệ khoảng 620-625 kg dầu trên tấn cơm dừa, là một loại dầu thực vật truyền thống với sản lượng toàn cầu từ 3,2 đến 3,6 triệu tấn mỗi năm Chứa khoảng 50% axit lauric, dầu dừa đã từng là nguồn dầu ăn chính ở các quốc gia trồng dừa Tuy nhiên, từ thập niên 80, do lo ngại về việc làm tăng cholesterol xấu, thị trường dầu dừa đã suy giảm và phải đối mặt với sự cạnh tranh từ dầu cọ và dầu đậu nành Gần đây, nghiên cứu y khoa đã chỉ ra rằng axit lauric có khả năng làm tăng cholesterol tốt, dẫn đến sự phục hồi trong tiêu thụ dầu dừa trên toàn cầu.
Dầu dừa được dùng theo hai hướng chính là dùng làm dầu ăn, và dùng làm chất nền cho mỹ phẩm và sản phẩm chăm sóc sức khỏe
Các quốc gia sản xuất dầu dừa, chủ yếu là ở Đông Nam Á và Nam Á, là thị trường tiêu thụ lớn nhất với 85-95% sản lượng được tiêu thụ nội địa Tại đây, dầu dừa được xem là loại dầu thực vật giá rẻ, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người nghèo Do đó, lượng dầu dừa xuất khẩu chỉ khoảng 1,7 đến 2 triệu tấn mỗi năm.
Theo FAOSTAT (2013), tổng khối lượng dầu dừa xuất khẩu của 20 quốc gia hàng đầu thế giới đạt 1,99 triệu tấn Trong số đó, Philippines dẫn đầu với 840,4 ngàn tấn, tiếp theo là Indonesia với 649,4 ngàn tấn Hà Lan, Malaysia và Papua New Guinea lần lượt xuất khẩu 196,6 ngàn tấn, 129,55 ngàn tấn và 58,5 ngàn tấn dầu dừa.
Năm quốc gia nhập khẩu lớn nhất năm 2013 với quy mô lớn hơn 100 ngàn tấn là Hoa
Các quốc gia nhập khẩu dầu dừa chủ yếu bao gồm Kỳ với 499,14 ngàn tấn, Hà Lan 308,47 ngàn tấn, Đức 215,4 ngàn tấn, Malaysia 147,45 ngàn tấn, Trung Quốc 146,53 ngàn tấn và Liên bang Nga 116,16 ngàn tấn Hầu hết các nước còn lại trong danh sách nhập khẩu dầu dừa đều là các nước ôn đới không có khả năng trồng dừa.
Ngoại trừ Hà Lan, quốc gia nhập khẩu dầu dừa để tiêu dùng, chế biến, tinh luyện và xuất khẩu, các nước khác chủ yếu sử dụng dầu dừa cho mục đích công nghiệp hoặc thực phẩm.
Theo APCC (2013), nhu cầu dầu dừa toàn cầu năm 2013 tiếp tục gia tăng so với các năm trước Châu Âu dẫn đầu về nhập khẩu dầu dừa, chiếm 43,9% thị phần toàn cầu Hoa Kỳ là thị trường lớn thứ hai trong lĩnh vực này.
Kỳ dẫn đầu thị trường với 23,5% thị phần, theo sau là Trung Quốc với 12,5% Malaysia chiếm 6,7% và các quốc gia nhập khẩu khác tổng cộng chiếm 13,4% Dự đoán tổng lượng giao dịch trong năm 2013 đạt khoảng 1,99 triệu tấn.
Theo thống kê của APCC giá dầu dừa biến động khá lớn trong giai đoạn 2010 2013
Giá dầu dừa Philippines CIF Rotterdam đã tăng mạnh từ dưới 1.000 USD/tấn vào cuối năm 2009 lên 1.600 USD/tấn vào tháng 6/2010, nhưng sau đó đã giảm sâu, đạt mức thấp nhất 677 USD/tấn vào tháng 7/2010 Tuy nhiên, giá dầu dừa đã phục hồi và tăng đều, đạt đỉnh 2.117 USD/tấn vào tháng 5/2012, trước khi tiếp tục sụt giảm Giá dầu dừa nội địa tại các quốc gia sản xuất chủ yếu như Philippines, Indonesia, và Sri Lanka cũng chịu ảnh hưởng từ biến động này.
Lanka và Ấn Độ đều có xu hướng như trên (Hình 2-12) Tháng 07/2013, giá dầu dừa
Philippines dao động quanh mức trên 1.600 USD/tấn Giá trong hai năm 2010 và
Năm 2012, giá cả trải qua nhiều biến động, với hai xu hướng trái ngược, đều tăng trên 20% so với mức trung bình năm Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2013, giá đã giảm với hệ số biến động dưới 10%.
Bảng 2-1 Tình hình sản xuất và sử dụng dầu dừa thế giới giai đoạn 2001-2011
Nguồn: USDA (2013) Oilseeds: World Market and Trade Circular Series
Bảng 2-2 Khối lượng và giá trị dầu dừa xuất khẩu của 20 nước xuất khẩu nhiều nhất thế giới (2013)
Hình 2-5 Diễn biến giá dầu dừa trong giai đoạn 2010-2013 (APCC)
Xếp hạng Quốc gia Khối lượng
Giá đơn vị (USD/tấn
Khô dầu dừa
Khô dầu dừa, hay còn gọi là bã dầu dừa, là sản phẩm phụ từ quá trình ly trích dầu dừa từ cơm dừa Tỷ lệ thu hồi khô dầu dừa dao động từ 30-35% khối lượng cơm dừa, tùy thuộc vào hàm lượng dầu trong nguyên liệu Sản phẩm này có chứa hàm lượng dầu và đạm cao, thường được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, đặc biệt là cho gia súc nhai lại.
Hàng năm, sản lượng khô dầu dừa trên toàn cầu dao động từ 1,6 đến 1,9 triệu tấn, chủ yếu được tiêu thụ tại các quốc gia sản xuất Tuy nhiên, lượng khô dầu dừa thương mại trên thị trường thế giới chỉ đạt khoảng 700-800 ngàn tấn mỗi năm.
Philippines và Indonesia là hai quốc gia hàng đầu thế giới trong sản xuất và xuất khẩu khô dầu dừa, chiếm tới 93,1% thị trường toàn cầu Trong đó, Philippines chủ yếu xuất khẩu khô dầu dừa sang các nước Châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam và Trung Quốc, với lượng xuất khẩu hàng năm đáng kể.
Năm 2013, Indonesia xuất khẩu khoảng 231,397 ngàn tấn, đứng thứ hai sau một quốc gia khác với tổng lượng xuất khẩu 420 – 430 ngàn tấn Hàn Quốc là thị trường chính, chiếm 62% tổng xuất khẩu của Indonesia, tiếp theo là Ấn Độ (16%), Hà Lan (7%), Anh Quốc (9%) và Việt Nam (4%).
Hai quốc gia này cũng tiêu thụ nội địa khá nhiều khô dầu dừa, trung bình 496 ngàn tấn/năm, chiếm 24% khối lượng sản xuất được
Khô dầu dừa có giá thành rất cạnh tranh, chỉ khoảng dưới 200 USD/tấn, thấp hơn nhiều so với các sản phẩm từ dừa khác Trong những giai đoạn giá giảm sâu, khô dầu dừa thậm chí có thể được bán với giá dưới mức này.
100 USD/tấn, thậm chí đến mức 50-60 USD/tấn (Hình 2-14)
Hình 2-7 Diễn biến sản xuất và tiêu thụ khô dầu dừa trên thế giới
Hình 2-6 Diễn biến giá khô dầu dừa trên thế giới (APCC, 2009-2013)
Cơm dừa nạo sấy
Cơm dừa nạo sấy là sản phẩm chế biến từ cơm dừa, hiện đang được sản xuất và xuất khẩu nhiều, chỉ sau dầu dừa và khô dầu dừa Sản phẩm này chủ yếu được sử dụng trong nấu ăn gia đình và làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp bánh kẹo, như nhân bánh, kẹo và mứt Ngoài ra, cơm dừa nạo sấy còn được tiêu thụ rộng rãi tại các bếp ăn tập thể, nhà ăn và hệ thống nhà hàng Đặc biệt, các quốc gia Trung Đông theo Hồi giáo ưa chuộng cơm dừa nạo sấy trong nấu nướng vì nó cung cấp chất béo thực vật thay thế cho chất béo động vật.
Năm 2012, khối lượng cơm dừa nạo sấy xuất khẩu từ ba quốc gia sản xuất chính là Philippines (109,171 ngàn tấn), Indonesia (47,097 ngàn tấn) và Sri Lanka (28,348 ngàn tấn) có xu hướng tăng, với tổng khối lượng đạt 184,616 ngàn tấn, tăng trưởng trung bình 4,14% mỗi tháng Giá cơm dừa nạo sấy cũng tăng đáng kể trong năm này, trái ngược với tình hình năm 2011.
Trong 5 năm gần đây (2008-2012), Philippines đã xuất khẩu 127,019 ngàn tấn cơm dừa nạo sấy Thị trường Châu Âu chiếm thị phần xuất khẩu cơm dừa nạo sấy lớn nhất của Philippines, 44% Kế đó là thị trường Bắc Mỹ chiếm 30,3% thị phần, với hai quốc gia tiêu thụ chủ yếu là Hoa Kỳ và Canada Các quốc gia ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương như Úc, Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc chia sẻ 20% thị phần nhập khẩu cơm dừa nạo sấy của Philippines
Năm 2012, Sri Lanka xuất khẩu 28,455 ngàn tấn cơm dừa nạo sấy, chủ yếu sang các nước Trung Đông, đặc biệt là Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Ả Rập Xê-Út, Iran, Oman và Jordan, chiếm 42,2% tổng lượng xuất khẩu với 12,065 tấn Thị trường Châu Âu đứng thứ hai với thị phần 26,7%, trong đó các khách hàng chính bao gồm Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Bồ Đào Nha, Anh Quốc, Ý, Ba Lan, Hy Lạp và Bỉ Ngoài ra, các thị trường đang tăng trưởng cho sản phẩm cơm dừa nạo sấy của Sri Lanka còn có Hoa Kỳ, Brazil, Chi Lê, Mexico, Pakistan và Úc.
Indonesia chủ yếu xuất khẩu cơm dừa nạo sấy đến Châu Âu, chiếm 42,8% tổng lượng xuất khẩu, trong khi khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm Úc và New Zealand, chiếm 30,8%, với Trung Quốc, Singapore và Úc là những thị trường hàng đầu Thị trường Châu Mỹ, đặc biệt là Brazil, Chile và Hoa Kỳ, đang gia tăng nhu cầu đối với sản phẩm này Theo FAO (2010), Hoa Kỳ đứng đầu trong số 20 quốc gia nhập khẩu cơm dừa nạo sấy lớn nhất, bên cạnh các nước giàu có ở Châu Âu như Bỉ, Đức, Hà Lan, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ý, và các quốc gia Trung Đông như Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Ả Rập Xê Út, Ai Cập Ngoài việc tiêu thụ trong nước, cơm dừa nạo sấy được xuất khẩu chủ yếu đến hai nhóm quốc gia: các nước Hồi giáo ở Trung Đông sử dụng cho nấu nướng gia đình, trong khi các quốc gia phương Tây chủ yếu nhập khẩu để phục vụ cho ngành công nghiệp bánh kẹo.
Giá cơm dừa nạo sấy có sự biến động lớn theo năm và tháng Từ năm 2010 đến tháng 7/2013, giá cơm dừa nạo sấy toàn cầu tăng mạnh, đặc biệt là ở các quốc gia sản xuất lớn như Philippines, Sri Lanka, Indonesia và Ấn Độ Sự gia tăng giá này bắt đầu từ năm 2009, cho thấy xu hướng tăng trưởng rõ rệt trong ngành xuất khẩu cơm dừa nạo sấy.
Vào năm 2010, đặc biệt là tháng 7, giá cơm dừa nạo sấy đã tăng lên khoảng 1.000 USD/tấn Tuy nhiên, từ tháng 8/2010, giá này đã giảm nhanh chóng, chạm đáy vào tháng 9-10/2011, thậm chí thấp hơn mức trung bình của năm 2009, với giá FOB tại Philippines dưới 1.100 USD/tấn Sau đó, giá cơm dừa nạo sấy đã phục hồi và tăng mạnh trong nửa sau của năm 2012, đạt đỉnh vào tháng 4-5/2013 với mức giá FOB tại Philippines lên tới 3.145 USD/tấn, cao hơn mức trung bình của năm.
Giá cơm dừa nạo sấy nội địa của Philippines, Indonesia và Sri Lanka đã có sự biến động mạnh từ năm 2009 đến 2013, với mức giá trung bình năm 2009 khoảng 1.000 USD/tấn Sau đó, giá tăng lên gần 1.700 USD/tấn vào năm 2010, nhưng lại giảm về gần mức 2009 trong cùng năm Đến năm 2012, giá tăng trở lại, đạt khoảng 1.600 USD/tấn, và tiếp tục tăng lên gần 3.000 USD/tấn vào quý 1 và quý 2 năm 2013 Tuy nhiên, sau tháng 5/2013, giá bắt đầu giảm.
Trong hai năm 2010 và 2012, giá cơm dừa nạo sấy biến động mạnh, với hệ số biến động lần lượt là trên 15% và hơn 20% Sự biến động giá này rất lớn, gây khó khăn trong việc dự báo giá cho mặt hàng này trong tương lai.
Hình 2-8 Diễn biến giá cơm dừa nạo sấy trong giai đoạn 2008-2011 (APCC)
Các sản phẩm từ xơ, vỏ dừa
Hiện nay, sản lượng xơ dừa toàn cầu hàng năm vào khoảng 723 ngàn tấn năm
Từ năm 2007 đến 2013, ngành sản xuất xơ dừa đã có tốc độ tăng trưởng trung bình 6,7%/năm, với Ấn Độ và Sri Lanka là hai quốc gia dẫn đầu, chiếm tới 90% tổng sản lượng toàn cầu Tuy nhiên, mức độ khai thác nguồn vỏ dừa tiềm năng vẫn còn rất hạn chế, ngay cả ở hai quốc gia này.
Vỏ dừa chứa 10% sợi xơ cứng, 20% sợi mềm và 70% sợi ngắn cùng mụn dừa Từ những sợi xơ này, có thể sản xuất nhiều vật liệu bền như bàn chải, thảm chùi chân, thảm lót sàn, túi xách, dây thừng, và lưới chỉ xơ dừa dùng trong đánh cá Ngoài ra, xơ dừa còn có thể thay thế sợi đay để dệt bao bì, túi đựng thực phẩm và ngũ cốc.
Tấm vật liệu làm vách tường được chế tạo từ mụn dừa và xơ ngắn có khả năng chống mối nhờ vào sự hiện diện của chất creosote Loại vật liệu này có chất lượng tương đương với gỗ dán, ván và ván gỗ ép, mang lại hiệu quả sử dụng cao.
Các sản phẩm xơ dừa truyền thống bao gồm dây thừng, chổi, thảm chùi chân và đệm xơ dừa Từ thập niên 80 đến 90, nhu cầu toàn cầu giảm gần một nửa do sự chuyển hướng sang sợi tổng hợp Tuy nhiên, từ thập niên 90, Ấn Độ đã tăng gấp đôi nhu cầu sử dụng sản phẩm xơ dừa Kể từ năm 2003, Trung Quốc trở thành thị trường chính với nhu cầu cao về lưới xơ dừa chống xói mòn và mụn dừa cho nông nghiệp Các nước đang phát triển như Philippines, Thái Lan và Việt Nam cũng đang gia tăng xuất khẩu xơ dừa, tạo ra thách thức cho Ấn Độ và Sri Lanka, hai quốc gia hàng đầu trong sản xuất và xuất khẩu xơ dừa.
Các sản phẩm từ xơ dừa như xơ dừa, lưới xơ dừa và vải địa chất đang được sử dụng rộng rãi trong xây dựng cơ sở hạ tầng, giúp gia cố đất và chống xói mòn Nhu cầu về các vật liệu này tại Trung Quốc và Nhật Bản rất lớn Xơ dừa tráng cao su được chế tạo thành đệm xơ dừa, trong khi vỏ dừa được sử dụng làm giá thể cho thủy canh và trải nền chuồng gia súc ở Nhật Bản Mụn dừa được ưa chuộng trong vườn ươm nhờ khả năng giữ ẩm và điều hòa dinh dưỡng cho cây trồng Ấn Độ sản xuất hơn 2/3 sản lượng xơ dừa toàn cầu, với ngành xơ dừa tăng trưởng 5,6% trong 5 năm qua, đạt tổng sản lượng 508 ngàn tấn vào năm 2012 Bang Kerala là trung tâm của ngành công nghiệp xơ dừa tại Ấn Độ, chiếm 61% sản lượng dừa và 85% sản phẩm từ xơ dừa Tuy nhiên, chỉ chưa đầy một nửa lượng vỏ dừa được chế biến thành các sản phẩm xơ dừa, phần còn lại chủ yếu được sử dụng làm chất đốt ở nông thôn.
Sri Lanka là quốc gia đứng thứ hai thế giới về sản xuất xơ dừa và các sản phẩm từ xơ dừa, chỉ sau Ấn Độ Trong 5 năm qua, sản lượng xơ dừa của Sri Lanka đã tăng trưởng ấn tượng với tỷ lệ 13,5% Năm 2012, sản lượng xơ dừa đạt 125 ngàn tấn.
Thái Lan đã có những bước tiến đáng kể trong ngành sản xuất xơ dừa, với sản lượng đạt 68 nghìn tấn vào năm 2012 Tốc độ tăng trưởng trung bình trong 5 năm gần đây đạt 6,8% mỗi năm.
Indonesia và Philippines là hai quốc gia sở hữu diện tích dừa lớn nhưng chưa tận dụng hết tiềm năng sản xuất xơ dừa Năm 2012, sản lượng xơ dừa của Indonesia chỉ đạt 20,1 ngàn tấn, trong khi Philippines đạt 8,765 ngàn tấn.
Gần đây, Philippines đã triển khai các chiến lược mới nhằm nâng cao vị thế trên thị trường sản phẩm chế biến từ dừa toàn cầu và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên từ trái dừa Là nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới về cơm dừa và dầu dừa, Philippines hiện đang chuyển hướng chú trọng vào các sản phẩm giá trị gia tăng như than gáo dừa, than hoạt tính, xơ dừa, mụn dừa và dầu dừa nguyên chất do sự biến động giá cả trên thị trường Các sản phẩm xơ dừa và mụn dừa có tiềm năng lớn nhờ vào tính ứng dụng rộng rãi và thân thiện với môi trường Philippines đặt mục tiêu trở thành một trong ba quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu sản phẩm xơ dừa bằng cách khai thác tiềm năng cho sử dụng công nghiệp, thay vì lãng phí phần lớn vỏ dừa như hiện nay Hiện tại, Philippines đứng thứ năm trong xuất khẩu sản phẩm xơ dừa, chỉ sau Ấn Độ, Sri Lanka, Việt Nam và Indonesia.
Các sản phẩm xơ dừa chủ yếu được tiêu thụ tại các thị trường lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Singapore, Australia, Hoa Kỳ, Canada và Anh Theo Coir Board của Ấn Độ, giá trị thương mại toàn cầu của xơ dừa và các sản phẩm từ xơ dừa chỉ đạt khoảng 140 triệu USD mỗi năm, với Sri Lanka và Ấn Độ là hai quốc gia dẫn đầu trong lĩnh vực này.
Ngành chế biến xơ dừa, mặc dù không có giá trị thương mại cao, nhưng lại đóng góp đáng kể trong việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho nông dân ở các quốc gia trồng dừa.
Trung Quốc hiện là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới về sản phẩm xơ dừa, chủ yếu từ các nhà cung cấp như Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Sri Lanka, Ấn Độ và Indonesia Năm 2012, Trung Quốc chiếm 64% tổng cầu xơ dừa thô toàn cầu với 272 ngàn tấn, và nhu cầu của quốc gia này tăng trưởng 25% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2013 Trong quý 1/2013, Trung Quốc đã nhập khẩu khoảng 15.273 tấn xơ đóng kiện từ Sri Lanka, chiếm hơn 73% tổng xuất khẩu của Sri Lanka Ngoài ra, các sản phẩm xơ dừa khác như sợi xơ cứng, sợi xoắn và mụn dừa cũng được Trung Quốc nhập khẩu với khối lượng lớn từ Sri Lanka.
Xuất khẩu xơ dừa từ Indonesia sang Trung Quốc đã tăng mạnh từ tháng 2 đến tháng 3/2013, đặc biệt là xơ thô Trong giai đoạn này, Indonesia đã xuất khẩu khoảng 3,3 ngàn tấn xơ thô, chiếm 98% tổng xuất khẩu xơ dừa Doanh thu từ việc bán các sản phẩm xơ dừa đạt khoảng 917 ngàn USD.
Các sản phẩm từ xơ dừa như đệm, tấm trải và thảm chùi chân chủ yếu được xuất khẩu sang châu Âu, bao gồm các quốc gia như Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha và Hà Lan Năm 2013, lượng nhập khẩu của các nước này đạt 18.200 tấn, tăng 11,7% so với năm 2011.
Giá các mặt hàng xơ dừa và sản phẩm từ xơ dừa như đệm xơ dừa và xơ long cứng của Sri Lanka, vải địa chất từ xơ dừa của Ấn Độ, cùng với xơ thô của Indonesia đã có diễn biến đáng chú ý trong giai đoạn 2009-2013 Sau một thời gian ổn định từ cuối năm 2009 đến đầu năm 2012, giá của các mặt hàng này đã bắt đầu tăng trở lại.
Than gáo dừa và than hoạt tính20
Than hoạt tính chế biến từ than gáo dừa chủ yếu được sản xuất tại các quốc gia như Philippines, Indonesia, Sri Lanka, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam Trong năm 2012, tổng lượng than hoạt tính xuất khẩu từ những quốc gia này đạt 107,638 ngàn tấn, tăng 11,3% so với 96,670 ngàn tấn năm 2009 Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng xuất khẩu 20,874 ngàn tấn than hoạt tính, tăng so với 19,950 tấn năm 2011, chủ yếu từ nguồn than gáo dừa nhập khẩu từ Indonesia, Philippines và Việt Nam.
Than hoạt tính sản xuất từ than gáo dừa đang chiếm ưu thế trên thị trường toàn cầu nhờ vào tính năng vượt trội Loại than này được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực công nghiệp như tinh lọc khí, xăng, chất lỏng và lọc vàng Ngoài ra, nó còn được sử dụng trong ngành hóa chất, dược phẩm, cũng như trong việc bảo quản rau quả và nhiều ứng dụng khác Trong 5 năm qua, nhu cầu nhập khẩu than hoạt tính từ than gáo dừa đã tăng trưởng ấn tượng với tỷ lệ 7,73% mỗi năm.
Trong năm 2012, Philippines xuất khẩu 30,764 ngàn tấn than hoạt tính từ gáo dừa, tăng 53,3% so với 20,026 ngàn tấn năm 2009 Dự đoán năm 2013, lượng xuất khẩu sẽ tiếp tục tăng khi trong quý 1, Philippines đã xuất được 7,580 ngàn tấn, tăng 21,2% so với 6,253 tấn cùng kỳ năm trước Ngoài ra, Philippines cũng xuất khẩu than gáo dừa đến các quốc gia khác với tổng lượng xuất khẩu đạt 33,037 ngàn tấn trong năm 2012, mặc dù có sự giảm nhẹ so với 33,037 ngàn tấn năm 2013.
Năm 2012, Hoa Kỳ là quốc gia hàng đầu trong việc nhập khẩu than hoạt tính, với 7,041 ngàn tấn, chiếm 36% thị phần toàn cầu, trong đó Nhật Bản và Hàn Quốc dẫn đầu thị trường châu Á và châu Đại Dương với 28% thị phần Châu Âu đứng thứ hai với 26% thị phần, trong đó Pháp, Bỉ và Anh là những quốc gia nhập khẩu chính Cùng năm, xuất khẩu than hoạt tính của Indonesia đạt 24,791 ngàn tấn, tăng 9,1% so với năm 2011, trong đó lượng xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 7,784 ngàn tấn, tăng 15% Ngoài ra, Indonesia cũng xuất khẩu 189,562 tấn than gáo dừa, tăng 48,8% so với năm trước.
2011 với giá FOB trung bình 300 USD/tấn
Năm 2012, Malaysia chỉ xuất khẩu 5,788 ngàn tấn than hoạt tính, giảm mạnh so với 17,730 tấn năm 2011 Thị phần xuất khẩu sang Hoa Kỳ cũng sụt giảm đáng kể, từ 1,902 tấn năm 2011 xuống còn 621 tấn năm 2012.
Năm 2012, Sri Lanka xuất khẩu 28,782 tấn than hoạt tính, tăng 63,2% so với năm 2011, với kim ngạch đạt 47,9 triệu USD, tăng 74,4% so với năm trước Thị trường Hoa Kỳ chiếm 48% thị phần than hoạt tính của Sri Lanka, tương đương 13,780 tấn và giá trị 23,02 triệu USD Ngoài ra, Sri Lanka cũng xuất khẩu 2.873 tấn than gáo dừa sang các thị trường khác, với mức giá FOB Colombo trung bình là 392 USD/tấn.
Giá than hoạt tính từ Sri Lanka xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ năm 2012 dao động từ 1.322 đến 1.716 USD/tấn, với mức trung bình là 1.517 USD/tấn, tăng 1,8% mỗi tháng Đến đầu năm 2013, giá than hoạt tính đã tăng lên 1.764 USD/tấn, cao hơn 16,3% so với năm 2012 Trong khi đó, giá than hoạt tính từ Indonesia và Việt Nam chỉ ở mức 1.175 và 1.151 USD/tấn, tương ứng Philippines có giá than hoạt tính cao nhất với mức trung bình 1.644 USD/tấn năm 2012, vượt Indonesia 40% và Sri Lanka 7,5%.
Giá than gáo dừa và than hoạt tính đã tăng nhanh chóng từ năm 2011 đến nay, phản ánh nhu cầu nhập khẩu và sử dụng các sản phẩm này ngày càng cao Hình 2-17 minh họa giá than gáo dừa tại một số quốc gia sản xuất chủ yếu như Philippines, Sri Lanka và Indonesia.
Hình 2-10 Diễn biến giá than gáo dừa trong giai đoạn 2008-2011 (APCC)
Tóm lược về sản xuất và thương mại sản phẩm dừa thế giới
Dừa chủ yếu được trồng ở khu vực Đông Nam Á, Nam Á và Châu Đại Dương, với Indonesia, Philippines và Ấn Độ là ba quốc gia có diện tích canh tác dừa lớn nhất, chiếm phần lớn diện tích dừa toàn cầu Ngoài ra, Sri Lanka và Thái Lan, mặc dù có diện tích dừa nhỏ hơn, nhưng vẫn đóng góp quan trọng cho ngành dừa thế giới Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1% diện tích dừa toàn cầu.
Diện tích canh tác dừa trên toàn cầu hiện ổn định, với tiềm năng phát triển trồng mới chủ yếu tập trung ở một số quốc gia như Sri Lanka và Việt Nam Sản lượng dừa toàn cầu phụ thuộc vào khả năng thâm canh và nâng cao năng suất tại các quốc gia quan trọng Mặc dù Indonesia và Philippines có diện tích trồng dừa lớn, nhưng năng suất của họ lại khá thấp Ngược lại, Ấn Độ và Sri Lanka đạt năng suất cao hơn Do đó, vẫn còn nhiều cơ hội để thâm canh và tăng năng suất dừa tại Indonesia và Philippines.
Indonesia, Philippines, Ấn Độ và Sri Lanka là những quốc gia hàng đầu về trồng dừa, đồng thời tiêu thụ phần lớn sản phẩm dừa và cơm dừa mà họ sản xuất Ngoài ra, các quốc gia này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu các sản phẩm dừa ra thị trường toàn cầu.
Sản phẩm dừa xuất khẩu chủ yếu bao gồm dầu dừa, khô dầu dừa, cơm dừa, cơm dừa nạo sấy, xơ dừa, sản phẩm xơ dừa, than gáo dừa và than hoạt tính Trong khi đó, các sản phẩm giá trị gia tăng cao như sữa dừa, kem dừa và bột sữa dừa có khối lượng sản xuất và tiêu thụ thấp hơn so với các sản phẩm truyền thống Thông tin chi tiết về các sản phẩm này rất cần thiết để hiểu rõ hơn về thị trường dừa.
Các quốc gia hàng đầu trong sản xuất và xuất khẩu dầu dừa và khô dầu dừa bao gồm Philippines, Indonesia, Malaysia và Papua New Guinea Mặc dù các sản phẩm này được thương mại với quy mô lớn, nhưng giá trị của chúng vẫn còn thấp Thị trường chính cho dầu dừa là Hoa Kỳ và các nước Châu Âu Dầu dừa chủ yếu được sử dụng làm dầu ăn, trong khi một phần nhỏ được chế biến tinh lọc để sản xuất mỹ phẩm và sản phẩm chăm sóc da.
Philippines, Indonesia và Sri Lanka là những quốc gia hàng đầu trong xuất khẩu cơm dừa nạo sấy Thị trường chủ yếu cho sản phẩm này bao gồm các quốc gia Trung Đông, nơi sử dụng để chế biến thực phẩm, và các quốc gia Châu Âu, chuyên dùng trong sản xuất bánh kẹo.
Sri Lanka và Ấn Độ dẫn đầu trong ngành công nghiệp chế biến xơ dừa và các sản phẩm liên quan, với nhu cầu thị trường cao, đặc biệt từ Trung Quốc Trong khi đó, Philippines đang triển khai kế hoạch phát triển ngành chế biến xơ dừa nhằm tăng giá trị gia tăng và đa dạng hóa sản phẩm.
Philippines, Indonesia, Sri Lanka, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam đều có thế mạnh trong việc chế biến và xuất khẩu than gáo dừa và than hoạt tính Thị trường tiêu thụ chính của than hoạt tính tập trung ở Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Bỉ và Anh quốc.
Giá các sản phẩm chế biến từ dừa được xếp hạng từ cao đến thấp, bắt đầu với than hoạt tính, cơm dừa nạo sấy, dầu dừa và cơm dừa Trong khi đó, nhóm sản phẩm có giá trị thấp hơn bao gồm than gáo dừa, xơ dừa và khô dầu dừa Đặc biệt, một số sản phẩm chế biến từ xơ dừa, như vải địa chất, lại có giá trị cao.
Trong vài năm qua, giá các mặt hàng chế biến từ dừa đã trải qua nhiều biến động, với xu hướng giảm từ đầu năm 2010 đến cuối năm 2011, sau đó tăng trở lại cho đến đầu năm 2013 Từ đầu đến giữa năm 2013, giá các sản phẩm chế biến từ cơm dừa lại có xu hướng giảm, cho thấy dấu hiệu hạ nhiệt cơn sốt giá Biên độ biến động giá cao cho thấy sự không chắc chắn về nhu cầu tiêu thụ Tuy nhiên, xu hướng tăng trưởng rõ ràng của các sản phẩm xơ dừa và than gáo dừa (dùng để chế biến than hoạt tính) vẫn được ghi nhận.
3 SẢN XUẤT DỪA Ở VIỆT NAM, ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ BẾN TRE
Canh tác dừa ở Việt Nam và Đồng Bằng Sông Cửu Long
Diện tích, năng suất và sản lượng dừa Việt Nam và Đồng Bằng Sông Cửu
Việt Nam từng có kế hoạch phát triển cây dừa với quy mô lớn, lên tới 700 ngàn ha từ những năm 1980 Theo thống kê của APCC, đến năm 1991, diện tích trồng dừa đã đạt 330 ngàn ha, cho thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ của loại cây này trong nước.
Diện tích dừa tại Việt Nam đã giảm liên tục trong thời gian dài, hiện chỉ còn chưa đầy 140 ngàn ha Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam (2011), diện tích dừa và diện tích cho thu hoạch đã sụt giảm nhanh chóng trong giai đoạn 2002-2005 Nguyên nhân của sự suy giảm này bao gồm việc ưu tiên phát triển cây lương thực để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản, mở rộng diện tích cây ăn trái, sự yếu kém của ngành công nghiệp chế biến dừa, và sự cạnh tranh khốc liệt từ dầu cọ và dầu đậu nành Tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, diện tích chuyển đổi từ canh tác nông nghiệp sang nuôi tôm sú đã lên tới khoảng 400 ngàn ha từ năm 1999, dẫn đến nhiều vùng dừa bị chặt bỏ, đặc biệt ở các huyện như Đầm Dơi, Thới Bình và Trần Văn Thời tại tỉnh Cà Mau.
Dịch bọ dừa do loài Brontispa longissima đã gây hại nghiêm trọng cho vùng dừa Đồng Bằng Sông Cửu Long từ năm 1999, làm giảm năng suất cây dừa Hậu quả là nhiều nông dân phải chuyển đổi sang cây trồng khác do thua lỗ, dẫn đến thất thoát một phần diện tích trồng dừa.
Cây dừa ở Việt Nam hiện nay được trồng rộng rãi ở nhiều tỉnh, nhưng chủ yếu tập trung với quy mô lớn tại hai tỉnh Bình Định, nổi tiếng với vùng dừa Tam Quan, và Bến Tre thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Theo số liệu không chính thức, Đồng Bằng Sông Cửu Long chiếm hơn 78,6% diện tích dừa cả nước, với khoảng 110 ngàn ha Bến Tre là tỉnh có diện tích dừa lớn nhất, khoảng 50 ngàn ha, và được trồng tập trung thành vùng nguyên liệu lớn cho ngành chế biến sản phẩm dừa.
Từ năm 2008 đến nay, diện tích dừa tại Bến Tre đã liên tục tăng trưởng, với việc trồng mới dừa diễn ra nhanh chóng Theo số liệu từ Cục Thống Kê Bến Tre, năm 2011, tổng diện tích dừa đạt 49.920 ha, trong đó có 39.118 ha đang cho thu hoạch Điều này cho thấy trong những năm tới, diện tích dừa cho thu hoạch sẽ tiếp tục gia tăng, khi tỉnh còn hơn 10.000 ha dừa chưa đến thời kỳ thu hoạch Bến Tre hiện đóng góp 35,8% tổng diện tích dừa của cả nước.
Hình 3-1 Diễn biến diện tích canh tác dừa cả nước giai đoạn 2002-2011
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2011
Hình 3-2 Diễn biến diện tích canh tác dừa Bến Tre giai đoạn 2007-2011
Nguồn: Cục Thống Kê Bến Tre, 2011
Tình hình sản xuất, chế biến và thương mại dừa ở Bến Tre
Dừa Bến Tre chủ yếu được trồng ở các huyện Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Giồng Trôm, cùng một phần của huyện Bình Đại và Châu Thành Đất trồng dừa ở Bến Tre chủ yếu là đất phù sa sông có ảnh hưởng mặn, với vùng dừa tập trung nhiều nhất nằm trong khu vực lợ Trước khi tách thành hai huyện, huyện Mỏ Cày (cũ) có 19.562 ha dừa, chiếm 39,2% tổng diện tích dừa của tỉnh Huyện Giồng Trôm có diện tích dừa 12.569 ha, tương đương 25,18% tổng diện tích dừa toàn tỉnh Huyện Bình Đại và Châu Thành mỗi huyện cũng có khoảng 5.400 ha dừa, gần 11% diện tích dừa của tỉnh.
Cơ cấu diện tích dừa đang cho thu hoạch cũng tương tự như vậy (Hình 3-3 và 3-4)
Hình 3-3 Cơ cấu diện tích dừa Bến Tre cho thu hoạch năm 2011, phân theo huyện (%) Hình 3-4 Cơ cấu diện tích dừa Bến Tre năm
Diện tích và sản lượng dừa ở Việt Nam và Bến Tre thường không nhất quán giữa các nguồn thông tin Theo ước tính của APCC (2013), Việt Nam có khoảng 141 ngàn ha dừa, sản xuất khoảng 813 triệu trái dừa mỗi năm, tương đương 180 ngàn tấn cơm dừa Trong khi đó, Tổng cục Thống kê (2011) báo cáo diện tích dừa là 139,3 ngàn ha Bến Tre, theo báo cáo PI (2011), có hơn 40 ngàn ha dừa với sản lượng khoảng 310 triệu trái/năm Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Bến Tre (2013) cho biết, năm 2012, diện tích dừa ở Bến Tre khoảng 51.560 ha, trong đó có 41.535 ha cho trái, ước sản lượng đạt 420,212 triệu trái.
Kê Bến Tre, năm 2011, Bến Tre có 49.920 ha dừa, trong đó cho thu hoạch 39.118 ha
Theo ước tính không chính thức, khoảng 12,5% diện tích dừa Bến Tre trồng các giống dừa cho trái tươi như Xiêm xanh, Xiêm vàng, Xiêm đỏ, Xiêm lục, dừa Tam Quan, và dừa Dứa Trong khi đó, 85% diện tích còn lại chủ yếu trồng các giống dừa chế biến công nghiệp và đa dụng như dừa Ta (Ta xanh, Ta vàng, Ta đỏ), dừa Dâu (Dâu xanh, Dâu vàng, Dâu đỏ), cùng các giống lai như PB121 và JVA 2 Các vùng trồng dừa tươi và dừa chế biến công nghiệp phân bố xen kẽ và hiện diện ở tất cả các huyện.
Năng suất dừa Bến Tre cũng khá cao so với chuẩn quốc tế, vào khoảng 7.700 trái/ha/năm, tương đương với năng suất dừa Ấn Độ và Sri Lanka
Bến Tre có tiềm năng phát triển vùng chuyên canh dừa nhờ quỹ đất chuyển đổi từ các cây trồng khác như mía và lúa năng suất thấp, với diện tích không dưới 10.000 ha Đặc biệt, nếu được đầu tư vào việc trồng mới các giống dừa năng suất cao và áp dụng kỹ thuật chăm sóc, bón phân, cũng như bảo vệ thực vật hiệu quả, Bến Tre có khả năng nâng cao năng suất dừa từ 20-30% trên diện rộng.
Nhiều năm trước, ngành chế biến dừa ở Bến Tre phát triển chậm, vì vậy chính quyền địa phương đã khuyến khích xuất khẩu dừa trái nguyên liệu, chủ yếu là dừa khô lột vỏ, với thuế suất ưu đãi 0% cho thương nhân nước ngoài, đặc biệt là thương nhân Trung Quốc, nhằm nâng cao lợi ích cho nông dân trồng dừa Xuất khẩu dừa trái đã trở thành thế mạnh truyền thống của Bến Tre từ những năm 1994-1995.
Ngành công nghiệp chế biến dừa tại Bến Tre bắt nguồn từ việc chế biến dầu dừa, sau đó phát triển đa dạng hóa sản phẩm từ cơm dừa và nước dừa Sự du nhập công nghệ từ các quốc gia trồng dừa đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngành chế biến, thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư, bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, tư nhân và nhà nước Đến cuối năm 2011, Bến Tre đã có 82 doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực này.
33 hoạt động trong lĩnh vực chế biến các sản phẩm từ dừa Con số này tăng 74,5% so với năm 2007 (Cục Thống Kê Bến Tre, 2013)
Sản phẩm chế biến từ dừa ngày càng đa dạng, với các doanh nghiệp khai thác tối đa tiềm năng của trái dừa Các sản phẩm chủ yếu bao gồm dừa khô, kẹo dừa, thạch dừa, sản phẩm từ cơm dừa như dầu dừa, cơm dừa nạo sấy và bột sữa dừa Ngoài ra, nhóm sản phẩm từ xơ dừa như mụn xơ, chỉ xơ, lưới xơ, thảm xơ và dây xoắn cũng rất phổ biến Từ gáo dừa, có than gáo dừa (than thiêu kết) và than hoạt tính Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ được chế biến từ các bộ phận như thân gỗ, trái, gáo và gân lá dừa, góp phần làm phong phú thêm thị trường sản phẩm từ dừa.
Hàng năm, kim ngạch xuất khẩu dừa trái và các sản phẩm từ dừa của Bến Tre đạt trên 70 triệu USD, đóng góp quan trọng vào nguồn thu của tỉnh và tạo việc làm cho người lao động địa phương.
Thị trường của các sản phẩm dừa Bến Tre cũng khá phong phú Hàng năm có đến 60-
70 quốc gia nhập khẩu sản phẩm dừa từ Bến Tre Theo Cục Thống Kê Bến Tre
Từ năm 2013, Bến Tre đã xuất khẩu khoảng 110 triệu trái dừa khô lột vỏ mỗi năm, chiếm hơn 80% sản lượng dừa của tỉnh, với kim ngạch năm 2011 đạt hơn 18 triệu USD, chủ yếu sang Trung Quốc và Hàn Quốc Sản phẩm xơ dừa mang lại giá trị kim ngạch cao nhất, đạt 24,5 triệu USD, xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước Châu Âu Hàn Quốc là khách hàng lớn nhất nhập mụn dừa Bến Tre với 4,13 ngàn tấn, tiếp theo là Đài Loan và Canada với 1,38 ngàn tấn mỗi nước Cơm dừa nạo sấy cũng là sản phẩm chủ lực, với khối lượng xuất khẩu 16,239 ngàn tấn và giá trị 15 triệu USD năm 2011, đến hơn 50 quốc gia, chủ yếu là Sri Lanka, Ai Cập và Singapore Ngoài ra, Bến Tre còn có khả năng chế biến và xuất khẩu từ 15-16 ngàn tấn than gáo dừa/năm và khoảng 100 tấn than hoạt tính, với kim ngạch khoảng 2,86 triệu USD, chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc.
Năm 2011, Trung Quốc là thị trường chính tiêu thụ sản phẩm từ dừa của Việt Nam, với hơn 100 triệu trái khô lột vỏ, 8.000 tấn kẹo dừa, 5.200 tấn thạch dừa, 16.300 tấn than thiêu kết và 76.500 tấn chỉ xơ dừa Đặc biệt, ngoài kẹo dừa, các sản phẩm dừa khác mà Trung Quốc nhập khẩu từ Bến Tre chủ yếu là nguyên liệu thô phục vụ cho ngành chế biến dừa trong nước.
Nhu cầu nguyên liệu chế biến sản phẩm dừa tại Bến Tre đang tăng cao, dẫn đến tình trạng cạnh tranh giá nguyên liệu và thiếu hụt nguồn cung Việc thu mua dừa trái khô lột vỏ, xơ dừa và than thiêu kết từ thương nhân Trung Quốc đã làm gia tăng áp lực lên các doanh nghiệp địa phương Tình trạng này ngày càng nghiêm trọng trong những năm gần đây, gây khó khăn cho sản xuất và làm giảm đáng kể công suất chế biến so với thiết kế ban đầu.
Dừa đóng vai trò quan trọng trong kinh tế tỉnh Bến Tre, không chỉ mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm và sinh kế cho người dân địa phương.
Bến Tre, mặc dù có diện tích nhỏ so với các quốc gia trồng dừa chính, nhưng lại sở hữu một ngành công nghiệp chế biến dừa phát triển và đa dạng Tỉnh này tận dụng tối đa tiềm năng từ nguồn nguyên liệu dừa, đồng thời có mối liên kết mạnh mẽ với nhiều quốc gia nhập khẩu, cho thấy khả năng đa dạng hóa sản phẩm dừa của Bến Tre.
Ngành công nghiệp chế biến dừa ở Bến Tre đang phát triển mạnh mẽ và đa dạng, không chỉ tập trung vào các sản phẩm truyền thống như dầu dừa và cơm dừa nạo sấy Ngoài ra, ngành này còn khai thác tối đa vỏ dừa để chế biến xơ dừa và xuất khẩu mụn dừa với khối lượng lớn, góp phần nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm dừa.
Sản phẩm chế biến từ Bến Tre bao gồm nhiều nhóm chính như xơ dừa, gáo dừa, cơm dừa và nước dừa Đặc biệt, nhóm sản phẩm chế biến từ xơ dừa và mụn dừa đạt giá trị kim ngạch cao nhất, thể hiện tiềm năng kinh tế lớn của ngành chế biến dừa tại địa phương.