1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh

121 19 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ý Định Sử Dụng Hệ Thống Điện Mặt Trời Của Hộ Gia Đình Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả Nguyễn Anh Khoa
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Quỳnh Mai
Trường học Đại học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Quản trị kinh doanh
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 121
Dung lượng 4,34 MB

Cấu trúc

  • 1. CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (12)
  • 2. CHƯƠNG 2 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT (22)
  • 3. CHƯƠNG 3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (41)
  • 4. CHƯƠNG 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÌNH LUẬN (52)
  • 5. CHƯƠNG 5 - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (81)
  • Kết luận (81)

Nội dung

CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Trong Chương 1, tác giả trình bày bối cảnh và lý do nghiên cứu về ô nhiễm môi trường từ khai thác và sử dụng nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là trong sản xuất điện, đang trở thành vấn đề nghiêm trọng tại Việt Nam và trên thế giới Giải pháp khả thi cho vấn đề này là chuyển đổi sang sản xuất điện từ năng lượng sạch, cụ thể là năng lượng mặt trời Từ đó, nghiên cứu xác định mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa học thuật cũng như thực tiễn của đề tài “Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình Thành phố Hồ Chí Minh”.

Trong xã hội hiện đại, điện năng đóng vai trò quan trọng và nhu cầu sử dụng ngày càng tăng Hiện nay, nhiên liệu hóa thạch vẫn là nguồn cung cấp chính cho sản xuất điện, chiếm 64,7%, trong khi thủy điện chiếm 20,1% Tuy nhiên, nguồn nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt, điều này diễn ra song song với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế toàn cầu.

Việc gia tăng sử dụng nhiên liệu hóa thạch không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà còn thải ra khoảng 32,1 tỉ tấn carbon dioxide mỗi năm, trong đó 40% đến từ sản xuất điện (IEA, 2017) Khí metan thoát ra trong quá trình khai thác và carbon dioxide từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch góp phần vào hiện tượng nóng lên toàn cầu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn cung cấp nước, thực phẩm và điều kiện y tế của con người Thay đổi lượng mưa tác động đến nông nghiệp và sản xuất điện, trong khi tăng nhiệt độ biển cản trở hoạt động thủy sản Sự thay đổi khí hậu dẫn đến các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão và đợt nóng lạnh bất thường, gia tăng nguy cơ bệnh truyền nhiễm và tử vong do suy dinh dưỡng Hơn nữa, tài nguyên năng lượng như dầu mỏ đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tranh chấp trong nhiều thập kỷ, vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến tình hình thế giới ngày nay.

Trước tình hình ô nhiễm nghiêm trọng do nhiên liệu hóa thạch, các nước G7, mặc dù chỉ chiếm 10% dân số thế giới, nhưng phát thải CO2 bằng 1/4 toàn cầu, đã thống nhất mục tiêu hướng tới nền kinh tế phi carbon Trong thông cáo mới nhất, lãnh đạo các nước công nghiệp phát triển cam kết cắt giảm 40% đến 70% khí thải nhà kính toàn cầu so với mức năm 2010 vào năm 2050 Đồng thời, Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hiệp Quốc COP21 ở Paris đã được 196 bên thông qua với mục tiêu giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2°C và nỗ lực giảm xuống còn 1,5°C so với thời kỳ tiền công nghiệp.

Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế xã hội đòi hỏi nguồn năng lượng dồi dào và an toàn Ngành năng lượng toàn cầu đang trải qua một bước chuyển lịch sử với sự chuyển mình sang năng lượng tái tạo, nguồn năng lượng sạch và bền vững Hiện nay, tổng công suất điện mặt trời trên thế giới ước tính đạt 177,003 MW, đủ khả năng cung cấp điện cho 29 triệu hộ gia đình.

Nghiên cứu về ý định sử dụng năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời để sản xuất điện, đã trở thành một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia và nhà nghiên cứu, bao gồm cả Việt Nam, trong những năm gần đây Mục tiêu của nghiên cứu này là khám phá các yếu tố mới nhằm khuyến khích và tăng cường ý định sử dụng điện từ nguồn năng lượng sạch, vô tận từ bức xạ mặt trời, thông qua sự tham gia tích cực của cộng đồng.

Trong cơ cấu nguồn năng lượng sản xuất điện tại Việt Nam, nhiệt điện than chiếm tỷ trọng lớn nhất với 47,3%, tiếp theo là tua bin khí với 27,8%, và nguồn năng lượng tái tạo chủ yếu là thủy điện, chiếm 19,6% (Cục điều tiết điện lực).

Theo dự báo trong quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tế-kỹ thuật của thủy điện lớn sẽ được khai thác hết, dẫn đến việc năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính sẽ không còn khả năng khai thác nữa (Nguyễn Thế Chinh, 2015).

Giai đoạn 2010-2020, Việt Nam đối mặt với sự mất cân đối giữa cung và cầu năng lượng, chuyển từ nước xuất khẩu thành nước nhập khẩu năng lượng, đặc biệt vào năm 2018 và 2019 Dự báo đến năm 2030, nguồn năng lượng tái tạo sẽ chiếm 32,2% tổng nhu cầu năng lượng, và 43,1% vào năm 2050, với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng Quy hoạch điện VII điều chỉnh sẽ ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời, với mục tiêu đạt 850 MW vào năm 2020, 4.000 MW vào năm 2025 và 12.000 MW vào năm 2030 Nhà máy điện mặt trời đầu tiên kết nối lưới điện Quốc gia là An Hội, hoàn thành vào tháng 12/2014 với công suất 36 kWp Gần đây, nhiều dự án điện mặt trời lớn đã được triển khai, bao gồm dự án tại Ninh Thuận với công suất 204 MW, khởi công vào ngày 07/07/2018.

Việt Nam, với vị trí địa lý nằm giữa xích đạo và chí tuyến Bắc, có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời nhưng hiện tại vẫn chưa được khai thác hiệu quả Khu vực Nam Bộ, đặc biệt là Thành Phố Hồ Chí Minh, nhận được từ 1.400-3.000 giờ nắng mỗi năm, với bức xạ trung bình khoảng 5 kWh/m2/ngày Tuy nhiên, các quy hoạch điện mặt trời chủ yếu tập trung vào nguồn điện lớn mà chưa chú trọng đến việc lắp đặt hệ thống điện mặt trời trên mái nhà dân, mặc dù mỗi mái nhà có thể lắp đặt 3-4 kW pin mặt trời với chi phí đầu tư khoảng 10-50 triệu đồng Thời gian hoàn vốn chỉ mất 6-7 năm và trong tương lai, chi phí đầu tư sẽ giảm khi thiết bị sản xuất trong nước ngày càng phổ biến Việc lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời không chỉ giúp chính phủ giảm khai thác nhiên liệu hóa thạch và phát triển năng lượng sạch, mà còn giúp người dân tiết kiệm chi phí điện hàng tháng và có cơ hội thu lợi từ việc bán điện dư thừa cho lưới điện.

Mặc dù năng lượng điện mặt trời mang lại nhiều lợi ích rõ ràng, việc áp dụng nguồn năng lượng sạch này tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn hạn chế Có một khoảng cách đáng kể giữa ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời và thực tế là nhiều hộ gia đình chưa thực sự triển khai Dù nhận thức được lợi ích và tỏ ra quan tâm đến công nghệ này, nhiều hộ gia đình vẫn chưa thực hiện hoặc gặp khó khăn trong việc mua sắm hệ thống điện mặt trời.

Nghiên cứu của Roozbeed Kardooni (2016), đã chỉ ra rằng phần lớn người dân ở Malaysia quan ngại về sự thay đổi khí hậu, trong khi Corner và cộng sự

Theo báo cáo năm 2011, 71% dân số Anh quan tâm đến sự thay đổi khí hậu, trong khi nghiên cứu của Leiserowitz và cộng sự (2014) cho thấy công chúng Mỹ cũng có mối liên hệ đáng kể với thời tiết liên quan đến biến đổi khí hậu Mặc dù người dân đã nhận thức về vấn đề này, mức độ sử dụng năng lượng sạch ở các quốc gia này vẫn còn thấp.

Malaysia, một quốc gia có tiềm năng điện tái tạo cao nhất trong ASEAN, đã gặp khó khăn trong việc thực hiện các chính sách năng lượng tái tạo, với chính sách nhiên liệu thứ V chỉ đạt 0,3% mục tiêu và các chính sách thứ VIII và IX chỉ đạt 8,3% (Muhammad Sukki et al., 2011; Maulud và Saidi, 2012) Một trong những nguyên nhân chính là mức trợ cấp nhiên liệu hóa thạch cao, với hơn 8 tỷ USD vào năm 2007 (Hamid và Rashid, 2011) Hệ thống điện mặt trời không mang lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư do chi phí đầu tư cao, thời gian hoàn vốn dài và sự không tương thích với ưu tiên cá nhân (Timilsina et al., 2000; Berger, 2001) Nghiên cứu cho thấy rằng việc lắp đặt hệ thống quá khổ làm tăng chi phí, và mặc dù chi phí lắp đặt đang giảm, khả năng giảm thêm trong tương lai là rất ít (Knudsen, 2002; Oliver và Jackson, 1999; Luque, 2001) Nếu giá điện không tăng hoặc không phát triển các tấm thu năng lượng mặt trời hiệu quả hơn, điện tái tạo sẽ khó cạnh tranh với điện sản xuất thông thường.

Rào cản trong việc chấp nhận công nghệ điện mặt trời ở Việt Nam cần được tìm hiểu kỹ lưỡng, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi có những đặc thù về địa lý, chính sách và văn hóa xã hội Việc áp dụng kết quả nghiên cứu toàn cầu vào bối cảnh Việt Nam có thể không phù hợp, do đó, cần phân tích hành vi người tiêu dùng và các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng công nghệ này Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) của Davis (1989) cung cấp nền tảng lý thuyết hữu ích, với ba yếu tố chính: nhận thức dễ sử dụng, nhận thức sự hữu ích và thái độ đối với việc sử dụng công nghệ Theo Legris và cộng sự (2003), mô hình TAM đã thành công trong việc dự đoán khoảng 40% việc sử dụng hệ thống mới, cho thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu ý định sử dụng công nghệ điện mặt trời để thúc đẩy sự chấp nhận rộng rãi hơn trong cộng đồng.

Hệ thống điện mặt trời – là một loại công nghệ mới, hoàn toàn có thể dùng mô hình TAM của Davis (1989) làm nền tảng cho nghiên cứu này

Để thúc đẩy nhu cầu sử dụng công nghệ điện mặt trời, nghiên cứu “Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình Thành phố Hồ Chí Minh” đã được hình thành nhằm tìm hiểu và phân tích xu hướng này.

 Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời dựa trên lý thuyết chấp nhận công nghệ TAM của Davis (1989)

 Xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này đến ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời

 Đề xuất những gợi ý cho doanh nghiệp kinh doanh và các nhà hoạch định chính sách nhằm thúc đẩy ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời

 Câu hỏi 1: Mô hình TAM (Davis, 1989) cần điều chỉnh như thế nào để phù hợp với nghiên cứu trong bối cảnh chấp nhận công nghệ điện mặt trời?

 Câu hỏi 2: Những yếu tố trong mô hình lý thuyết có ảnh hưởng như thế nào tới ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời?

CHƯƠNG 2 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Chương 2 sẽ tiếp tục từ phần tổng quan ở Chương 1, tập trung vào các cơ sở lý thuyết và tóm tắt một số nghiên cứu trước đây Mục tiêu là tìm kiếm những mối liên hệ phù hợp với vấn đề nghiên cứu và bối cảnh trong nước, từ đó xây dựng đề tài và đề xuất mô hình nghiên cứu hiệu quả.

Một số khái niệm, định nghĩa:

Hệ thống điện mặt trời:

Hệ thống điện mặt trời, hay còn gọi là hệ thống quang điện (Photovoltaic Systems - PVS), chuyển hóa năng lượng ánh sáng mặt trời thành điện năng thông qua hiệu ứng quang điện Khi ánh sáng chiếu vào vật chất, nó sẽ phát ra các electron Một tấm bán dẫn được lắp đặt trên mái nhà sẽ thu nhận ánh sáng mặt trời, kích thích và di chuyển các electron tự do từ điện cực N đến điện cực P.

Khi tấm bán dẫn tạo ra điện trường, nhiệm vụ tiếp theo là thu thập và chuyển đổi điện trường này thành dòng điện một chiều (DC) Sau đó, một bộ biến tần (Inverter) được sử dụng để chuyển đổi dòng điện một chiều (DC) thành dòng điện xoay chiều (AC), loại điện mà chúng ta sử dụng phổ biến trong cuộc sống hàng ngày.

Hệ thống năng lượng mặt trời được coi là một giải pháp kinh tế hợp lý (Book, 1999), giá cả phải chăng (Berger, 2001) và tương thích với các công nghệ khác (Knudsen, 2002) Nó không chỉ có khả năng giảm ô nhiễm (Luque, 2001) mà còn đáng tin cậy về mặt kỹ thuật (Cabraal và cộng sự, 1998) Theo Timilsina và cộng sự (2000), năng lượng mặt trời hấp dẫn ở cấp độ chính sách quốc gia vì có thể giảm phát thải khí carbon và đóng góp vào GDP thông qua việc tạo ra việc làm và thu nhập trong lĩnh vực sản xuất, kỹ thuật và xuất khẩu sản phẩm.

Hình 2.1 Mô phỏng hệ thống điện mặt trời Nguồn: Green Moutain Energy

Hệ thống quang điện (PVS) khác với hệ thống nước nóng năng lượng mặt trời (SWH), vì PVS sử dụng bức xạ mặt trời để sản xuất điện, trong khi SWH dùng để nung nóng nước Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tập trung vào hệ thống quang điện Ý định hành vi (Behavioral Intention) được hiểu là khả năng dự đoán hoặc giải thích hành vi dựa trên các xu hướng hành vi để thực hiện hành vi đó Các xu hướng này bao gồm những yếu tố động cơ ảnh hưởng đến hành vi, được định nghĩa là mức độ nỗ lực mà mọi người bỏ ra để thực hiện hành vi.

Sử dụng thực sự được định nghĩa là hành vi của người tiêu dùng trong quá trình tìm kiếm, mua sắm, sử dụng và đánh giá sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu cá nhân của họ (Peter D Bennet, 1988).

Nhận thức sự hữu ích (Perceived usefulness - PU) được định nghĩa là mức độ mà một cá nhân tin rằng việc sử dụng một hệ thống cụ thể sẽ cải thiện hiệu quả công việc của họ (Davis, 1989, trang 320).

Nhận thức dễ sử dụng (Perceived ease-of-use - PEOU) được định nghĩa là mức độ mà người dùng tin rằng việc sử dụng một hệ thống cụ thể sẽ không đòi hỏi quá nhiều nỗ lực (Davis, 1989, trang 320) Điều này cho thấy rằng nếu người dùng cảm thấy dễ dàng khi tương tác với hệ thống, họ sẽ có xu hướng sử dụng nó nhiều hơn.

Thái độ (Attitude): Được định nghĩa là cảm xúc tích cực hay tiêu cực của một cá nhân về việc thực hiện hành vi mục tiêu (Fishbein, Ajzen, 1975)

Thuyết hành động hợp lý (TRA -Theory of Reasoned Action)

Thuyết TRA, do Martin Fishbein và Icek Ajzen phát triển từ năm 1975, là lý thuyết tiên phong trong nghiên cứu về thái độ và hành vi người tiêu dùng Mô hình này chỉ ra rằng hành vi của cá nhân được quyết định bởi ý định thực hiện hành vi đó, trong đó hai yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định là Thái độ cá nhân và Chuẩn chủ quan Thái độ của một cá nhân được đo lường thông qua đánh giá kết quả và niềm tin liên quan đến hành vi.

Hình 2.2 Thuyết hành động hợp lý (TRA) Nguồn: Fishbein và Ajzen, (1975)

Behavioral Beliefs Đánh giá đầu ra

Normative Beliefs Động lực để tuân thủ

Thái độ hướng tới hành vi

Subjective Norm Ý định hành vi

Thuyết hành vi dự định (TPB - Theory of Planned Behavior)

Thuyết TPB, được phát triển từ lý thuyết hành động hợp lý TRA của Ajzen và Fishbein (1975), nhấn mạnh rằng con người có giới hạn trong việc kiểm soát hành vi (Ajzen, 1991) Nhân tố mới, Nhận thức kiểm soát hành vi (Perceived Behavioral Control - PBC), được Ajzen bổ sung, cho rằng nó tác động trực tiếp đến xu hướng thực hiện hành vi Nếu cá nhân có cảm nhận chính xác về mức độ kiểm soát của mình, thì nhận thức kiểm soát hành vi còn có khả năng dự đoán hành vi thực tế (Ajzen, 1991).

Hình 2.3 Thuyết hành vi dự định (TPB)

Mô hình Thuyết Hành vi Dự đoán (TPB) được coi là ưu việt hơn so với Thuyết Nhận thức (TRA) trong việc dự đoán và giải thích hành vi của người tiêu dùng trong cùng một bối cảnh nghiên cứu Điều này là do TPB khắc phục những nhược điểm của TRA bằng cách bổ sung yếu tố kiểm soát hành vi cảm nhận Tuy nhiên, TPB vẫn gặp một số hạn chế trong khả năng dự đoán hành vi.

2004) Một là, yếu tố quyết định ý định không giới hạn thái độ, chuẩn chủ quan, kiểm soát hành vi cảm nhận (Ajzen, 1991) Có thể có các yếu tố khác

Nhận thức kiểm soát hành vi

Chủ nghĩa chuẩn chủ quan có ảnh hưởng đến hành vi, nhưng nghiên cứu cho thấy chỉ 40% sự biến động của hành vi có thể được giải thích bằng Mô hình Hành vi Lý thuyết (TPB) (Ajzen, 1991; Werner, 2004) Thêm vào đó, có thể có khoảng cách thời gian đáng kể giữa đánh giá ý định hành vi và hành vi thực tế (Werner, 2004), trong thời gian này, ý định của cá nhân có thể thay đổi Cuối cùng, TPB là một mô hình dự đoán hành động dựa trên các tiêu chí nhất định, nhưng cá nhân không luôn hành xử như dự đoán từ các tiêu chí đó (Werner, 2004).

Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM–Technology Acceptance Model)

Chấp nhận công nghệ đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng trong hơn hai thập kỷ qua (Chuttur, 2009) Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) do Davis (1989) phát triển nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự thất bại của hệ thống và công nghệ Theo Davis, động lực của người sử dụng được giải thích qua ba yếu tố chính: Nhận thức dễ sử dụng (PEOU), Nhận thức sự hữu ích (PU), và Thái độ đối với việc sử dụng công nghệ Mô hình TAM đã được mở rộng qua nhiều nghiên cứu, tập trung vào tác động của các biến số bên ngoài đến niềm tin, thái độ và ý định hành vi Hơn nữa, các nghiên cứu cũng đã phát triển khung chấp nhận năng lượng bền vững dựa trên các lý thuyết chấp nhận công nghệ Theo Legris và cộng sự (2003), mô hình TAM có thể dự đoán thành công khoảng 40% việc sử dụng hệ thống mới.

Hình 2.4 Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM)

Các yếu tố ảnh hưởng đến Thái độ và Hành vi dự định trong áp dụng Công nghệ từ các nghiên cứu trước:

Tóm tắt một số nghiên cứu liên quan

Bảng 2.1 Tóm tắt một số nghiên cứu có liên quan

Tác giả Lĩnh vực nghiên cứu Kết quả tổng quát của các yếu tố tác động

Chấp nhận công nghệ năng lượng tái tạo

Chi phí  tác động gián tiếp đến thái độ thông qua PU và PEOU

Kiến thức  tác động tới PU, nhưng không tác động tới PEOU

PU và PEOU  tác động tích cực đến thái độ

Chấp nhận công nghệ năng lượng tái tạo

Thái độ hướng tới sử dụng năng lượng tái tạo  tác động tích cực đến tỷ lệ chấp nhận công nghệ

Tính tiên phong của người tiêu dùng có ảnh hưởng đến tỷ lệ chấp nhận công nghệ Syed Shah

Chấp nhận công nghệ năng lượng tái tạo

PEOU  tác động mạnh mẽ nhất đến ý định sử dụng; kế đến là PU

Nhận thức sự hữu ích

Nhận thức tính dễ sử dụng

Thái độ hướng tới sử dụng

Nhận thức kiểm soát hành vi  tác động mạnh thứ 3 đến ý định sử dụng

Nhận thức, chi phí và kiến thức  tác động vừa phải đến ý định sử dụng

Chấp nhận công nghệ năng lượng tái tạo

Thu nhập, trình độ kiến thức và hành vi của người hàng xóm cùng với niềm tin về chi phí sử dụng có ảnh hưởng gián tiếp đến ý định sử dụng, thông qua thái độ và nhận thức kiểm soát hành vi của cá nhân.

Thái độ, chuẩn chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi  đều có tác động tới ý định sử dụng

Chấp nhận công nghệ thông tin trong ngành y

Tình trạng sức khoẻ, niềm tin và mối quan tâm về sức khoẻ, cùng với đặc điểm của hệ thống công nghệ, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thái độ và hành vi của người dùng Những yếu tố này tác động gián tiếp thông qua việc hình thành nhận thức về nguy cơ, nhận thức về sự hữu ích và nhận thức về tính dễ sử dụng của công nghệ.

Ngày đăng: 12/01/2022, 23:18

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 2.1 Mô phỏng hệ thống điện mặt trời  Nguồn: Green Moutain Energy - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Hình 2.1 Mô phỏng hệ thống điện mặt trời Nguồn: Green Moutain Energy (Trang 23)
Hình 2.3 Thuyết hành vi dự định (TPB) - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Hình 2.3 Thuyết hành vi dự định (TPB) (Trang 25)
Hình 2.4 Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Hình 2.4 Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) (Trang 27)
Hình 2.5 Mô hình nghiên cứu đề xuất - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Hình 2.5 Mô hình nghiên cứu đề xuất (Trang 40)
Bảng 3.1 Thang đo Nhận thức về môi trường - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng 3.1 Thang đo Nhận thức về môi trường (Trang 44)
Bảng 3.2 Thang đo Nhận thức dễ sử dụng - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng 3.2 Thang đo Nhận thức dễ sử dụng (Trang 45)
Bảng 4.1  Thống kê đặc điểm mẫu - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng 4.1 Thống kê đặc điểm mẫu (Trang 53)
Bảng 4.2 Thống kê biến quan sát - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng 4.2 Thống kê biến quan sát (Trang 56)
Bảng số liệu cho thấy giá trị khảo sát thấp thất là 1 và cao nhất là 5. Đa - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng s ố liệu cho thấy giá trị khảo sát thấp thất là 1 và cao nhất là 5. Đa (Trang 57)
Bảng 4.3 Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo (cronbach’s alpha) biến Nhận  thức về môi trường - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng 4.3 Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo (cronbach’s alpha) biến Nhận thức về môi trường (Trang 58)
Bảng 4.4 Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo (cronbach’s alpha) biến Nhận  thức dễ sử dụng - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng 4.4 Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo (cronbach’s alpha) biến Nhận thức dễ sử dụng (Trang 59)
Bảng  4.6  Kết  quả  kiểm  định  độ  tin  cậy  thang  đo  (cronbach’s  alpha)  biến  Ý  định sử dụng hệ thống điện mặt trời - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
ng 4.6 Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo (cronbach’s alpha) biến Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời (Trang 60)
Bảng 4.5 Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo (cronbach’s alpha) biến Nhận  thức sự hữu ích - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng 4.5 Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo (cronbach’s alpha) biến Nhận thức sự hữu ích (Trang 60)
Bảng 4.7 Thống kê kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng 4.7 Thống kê kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha (Trang 61)
Bảng trên là kết quả có được từ phân tích nhân tố với phép xoay nhân - Ý định sử dụng hệ thống điện mặt trời của hộ gia đình thành phố hồ chí minh
Bảng tr ên là kết quả có được từ phân tích nhân tố với phép xoay nhân (Trang 63)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w