CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN KHOẢN PHẢI
Mục tiêu kiểm toán
1.3.1 Mục tiêu kiểm toán khoản mục nợ phải thu khách hàng:
Bảng 1.1: Mục tiêu kiểm toán khoản mục phải thu khách hàng Đầy đủ Tất cả khoản phải thu có thực được ghi nhận đầy đủ
Hiện hữu Các khoản nợ phải thu khách hàng đã được ghi chép là có thực tại thời điểm lập báo cáo
Các khoản nợ phải thu khách hàng cần được ghi chép chính xác trên báo cáo tài chính, đảm bảo sự phù hợp giữa chi tiết nợ phải thu và sổ cái Đồng thời, các khoản dự phòng phải được tính toán hợp lý để giá trị thuần của nợ phải thu gần đúng với giá trị thực tế có thể thu hồi.
Các khoản nợ phải thu khách hàng vào ngày lập báo cáo thuộc về đơn vò
Trình bày và công bố
Đúng đắn trong việc trình bày và công bố khoản nợ phải thu bao gồm phân loại chính xác các khoản nợ này, đồng thời đảm bảo công bố đầy đủ các vấn đề liên quan như cầm cố và thế chấp.
1.3.2 Mục tiêu kiểm toán đối với khoản mục doanh thu bán hàng:
Bảng 1.2: Mục tiêu kiểm toán khoản mục doanh thu Đầy đủ Kiểm tra sự ghi chép đầy đủ về các khoản doanh thu
Kiểm tra việc khóa sổ đối với việc bán hàng và cung cấp dịch vụ
Hiện hữu Kiểm tra sự có thực của các khoản doanh thu được ghi chép
Quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải thu khách hàng và doanh thu bán hàng
1.4.1 Tìm hiểu và đánh giá hệ thống KSNB đối với khoản mục nợ phải thu và doanh thu bán hàng:
1.4.1.1 Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ:
KSNB là một hệ thống chính sách và thủ tục được thiết lập tại đơn vị, nhằm đảm bảo các nhà quản lý có thể đạt được các mục tiêu một cách hợp lý và hiệu quả.
Để bảo vệ hiệu quả và sử dụng tối ưu mọi nguồn lực, cần ngăn chặn và phát hiện kịp thời các hành vi lãng phí, gian lận, cũng như việc sử dụng tài sản không đúng mục đích hoặc vượt quá thẩm quyền.
– Cung cấp những thông tin đáng tin cậy
– Định kỳ đánh giá kết quả hoạt động để nâng cao hiệu quả điều hành
– Mọi thành viên trong đơn vị phải tuân thủ các chính sách và các quy định nội bộ
Tất cả các giao dịch bán hàng, thu tiền và điều chỉnh doanh thu đều được ghi chép chính xác trong sổ kế toán, đảm bảo sự khớp đúng giữa sổ chi tiết bán hàng và sổ cái.
Số dư tài khoản cần phản ánh giá trị thực tế mà doanh nghiệp có thể thu hồi từ khách hàng nợ, đồng thời phải phù hợp với số tiền ghi trên sổ phụ phải thu của từng khách hàng.
Kiểm tra sự phân loại doanh thu
Trình bày và công bố
Các nghiệp vụ tiêu thụ được phân loại, trình bày đúng đắn và khai báo đầy đủ
Trước khi thực hiện kiểm toán, việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) của khách hàng là rất quan trọng và cần thiết, đặc biệt là đối với các lần kiểm toán đầu tiên.
KSNB trong quy trình doanh thu và nợ phải thu bao gồm các thủ tục kiểm soát liên quan đến tổ chức bán hàng Mức độ phân chia trách nhiệm cao trong đơn vị sẽ giúp giảm thiểu khả năng xảy ra gian lận và sai sót.
Trong quá trình này để tiếp cận và hiểu rõ hệ thống kiểm toán viên có thể lựa chọn các phương pháp tìm hiểu :
– Thu thập nghiên cứu tài liệu
– Dựa vào kinh nghiệm kiểm toán trước đây
Trong thực tế, kiểm toán viên thường tài liệu hóa công việc có thể là:
Các kiểm toán viên thường ưu tiên phương pháp phỏng vấn, đặc biệt là việc sử dụng bảng câu hỏi, nhằm tìm hiểu và ghi nhận các thủ tục kiểm soát đã được thực hiện Bảng câu hỏi có thể được thiết lập với những vấn đề chính sau đây:
– Các khoản bán chịu có được xét duyệt trước khi gửi hàng đi hay không?
– Các chứng từ gửi hàng có được đánh số liên tục trước khi sử dụng hay khoâng ?
– Các hóa đơn bán hàng có được đánh số trước hay không?
– Có quy định bắt buộc kiểm tra để đảm bảo rằng các hàng hóa gửi đi đều đã lập hóa đơn ?
– Việc nhận hàng bị trả lại có sự phê duyệt của người có thẩm quyền hay khoâng?
Đơn vị thực hiện việc đối chiếu giữa tài khoản chi tiết khách hàng và tài khoản nợ phải thu khách hàng trên sổ cái, nhằm đảm bảo tính chính xác và minh bạch trong quản lý tài chính Việc đối chiếu này thường được thực hiện định kỳ, giúp phát hiện kịp thời các sai sót và đảm bảo rằng thông tin tài chính luôn được cập nhật chính xác.
1.4.1.2 Đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm soát: Đoạn 5 VSA 400: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”
Thông qua phỏng vấn và quan sát, kiểm toán viên có thể đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm soát đối với một cơ sở dẫn liệu là thấp hơn mức tối đa, nếu các thủ tục kiểm soát được thiết kế và thực hiện hiệu quả Điều này cho phép kiểm toán viên giới hạn phạm vi các thử nghiệm cơ bản cần thực hiện Ngược lại, nếu rủi ro kiểm soát được đánh giá là tối đa và không thể giảm, kiểm toán viên sẽ không tiến hành thử nghiệm kiểm soát mà chỉ thực hiện các thử nghiệm cơ bản ở mức độ phù hợp.
1.4.1.3 Thiết kế và thực hiện các thử nghiệm kiểm soát:
Sau khi thực hiện đánh giá rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên thường tiến hành các thử nghiệm kiểm soát để thu thập bằng chứng về hiệu quả và hiệu lực của hệ thống Kiểm soát nội bộ liên quan đến doanh thu.
Thử nghiệm kiểm soát là quá trình kiểm tra nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán về thiết kế và hiệu quả hoạt động của hệ thống kế toán cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ Theo VSA 400, kiểm toán viên cần thực hiện các thử nghiệm này để đảm bảo có đủ bằng chứng về tính hiệu quả của các hệ thống trên nhiều phương diện khác nhau.
Hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ của đơn vị được thiết kế để ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót nghiêm trọng, đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong quản lý tài chính.
- Thực hiện: Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và hoạt động một cách hữu hiệu trong suốt thời kỳ xem xét”
Mục đích của việc thiết kế và thực hiện các thử nghiệm kiểm soát:
+ Xác định được phạm vi kiểm toán cần thiết đối với những sai sót trọng yếu có thể tồn tại trong báo cáo tài chính;
+ Xem xét những nhân tố có khả năng gây ra sai sót trọng yếu
1.4.1.4 Đánh giá lại rủi ro kiểm soát và xác lập mức trọng yếu:
Sau khi hoàn thành các thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên sẽ đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát cho từng cơ sở dữ liệu Dựa trên đánh giá này, họ có thể điều chỉnh chương trình kiểm toán, từ đó mở rộng hoặc thu hẹp các thử nghiệm cơ bản.
Khi hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) được đánh giá yếu kém và rủi ro kiểm soát cao, kiểm toán viên (KTV) cần mở rộng các thử nghiệm cơ bản Theo VSA số 400 đoạn 43, KTV phải dựa vào đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản Mục tiêu là giảm rủi ro phát hiện và hạ thấp rủi ro kiểm toán xuống mức có thể chấp nhận được.