1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN đề TÀI LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA

31 23 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lý Luận Của Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin Về Sản Xuất Hàng Hóa Và Sự Vận Dụng Trong Nền Sản Xuất Hàng Hóa Ở Việt Nam Hiện Nay
Tác giả Lờ Mỹ Xuõn
Người hướng dẫn Phạm Thị Thanh Nhó
Trường học Học viện Hàng không Việt Nam
Chuyên ngành Vận tải hàng không
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 450,18 KB

Cấu trúc

  • Nền kinh tế sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặc phát triển của nhân loại, vì vậy, nền kinh tế sản xuất hàng hóa mang rất nhiều ưu thế:

  • Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội nên nó khai thác được lợi thế của tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng ngành nghề; sản xuất hàng hóa phát triển thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, xóa bỏ tính bảo thủ trì trệ của kinh tế tự nhiên.

  • Sản xuất hàng hoá buộc người sản xuất phải thường xuyên năng động, nhạy bén, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nâng cao năng suất lao động.

  • Sản xuất hàng hoá tạo điều kiện mở rộng, giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các quốc gia làm cho đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

Trong bài viết này, tôi sẽ nghiên cứu lý luận giá trị của C.Mác về sản xuất hàng hoá, từ đó phân tích các điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá Chúng ta sẽ khám phá đặc trưng và ưu thế của hàng hoá, giúp hiểu rõ vai trò quan trọng của sản xuất hàng hoá trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá Tiếp theo, tôi sẽ trình bày cách Việt Nam áp dụng lý luận Kinh tế chính trị Mác – Lê nin vào sản xuất hàng hoá, đồng thời nêu ra những thành tựu đạt được và những hạn chế mà đất nước vẫn còn gặp phải.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu tài liệu, thu thập và phân tích thông tin để đưa ra những đánh giá và nhận xét.

Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống là cần thiết trong nghiên cứu, kết hợp giữa khái quát và mô tả để đạt được cái nhìn sâu sắc Việc phân tích và tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau giúp làm rõ các vấn đề phức tạp Sử dụng các phương pháp liên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn sẽ nâng cao chất lượng và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TIỂU LUẬN

Sản xuất hàng hóa trong kinh tế chính trị Mác – Lê nin

Trong Kinh tế chính trị Mác – Lê nin, sản xuất hàng hóa được định nghĩa là một hình thức tổ chức kinh tế, nơi mà người sản xuất tạo ra sản phẩm không phải để tiêu dùng cá nhân mà để trao đổi và mua bán trên thị trường Lịch sử cho thấy sản xuất hàng hóa không xuất hiện ngay từ đầu sự phát triển của nhân loại, mà chỉ tồn tại và phát triển trong một số phương thức sản xuất xã hội, liên quan đến những điều kiện lịch sử cụ thể.

Sản xuất hàng hóa là hình thức tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được tạo ra để bán, với mối quan hệ kinh tế giữa các nhà sản xuất thông qua việc mua bán trên thị trường Các hình thức đầu tiên của sản xuất hàng hóa xuất hiện từ thời nguyên thủy, khi con người sản xuất hàng hóa thông qua săn bắn và hái lượm Theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, trong lịch sử có hai kiểu tổ chức kinh tế chính: sản xuất tự cung, tự cấp và sản xuất hàng hóa Sự phân biệt giữa nền kinh tế tự cung tự cấp và nền kinh tế sản xuất hàng hóa hiện nay phản ánh sự phát triển của xã hội qua các thời kỳ.

Nền kinh tế sản xuất tự cung tự cấp là hình thức tổ chức kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm được tạo ra chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất Kiểu kinh tế này phổ biến trong thời kỳ công xã nguyên thủy và trong xã hội phong kiến, nơi mà nông dân gia trưởng sản xuất để phục vụ cho gia đình và cộng đồng của họ.

Sự gia tăng sản xuất và nhu cầu của con người đã dẫn đến sự chuyển mình từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa, một hình thức đã tồn tại từ các chế độ xã hội như chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến cho đến tư bản và xã hội chủ nghĩa hiện nay Sản xuất hàng hóa không chỉ là cơ sở cho sự trao đổi hàng hóa mà còn là nền tảng của mọi nền kinh tế Đây là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó sản phẩm được tạo ra chủ yếu để bán, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua quá trình trao đổi và mua bán, gắn liền với thị trường.

Nền kinh tế sản xuất hàng hóa vượt trội hơn nền kinh tế tự cung tự cấp nhờ vào việc khai thác các lợi thế tự nhiên, xã hội và kỹ thuật của từng cá nhân, cơ sở sản xuất và địa phương Sự phát triển của sản xuất hàng hóa không chỉ thúc đẩy phân công lao động xã hội mà còn làm tăng chuyên môn hóa, mở rộng mối liên hệ giữa các ngành và vùng miền Điều này giúp phá vỡ tính tự cấp tự túc, từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa được mở rộng ra giữa các quốc gia, các lợi thế của từng quốc gia cũng được khai thác hiệu quả hơn.

Trong sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất đã được mở rộng không chỉ giới hạn ở cá nhân hay gia đình, mà còn dựa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật, từ đó thúc đẩy sự phát triển sản xuất Sự ra đời của sản xuất hàng hóa chứng minh rằng nhu cầu sống của con người ngày càng cao, buộc sản xuất phải phát triển toàn diện để đáp ứng kịp thời và đầy đủ những nhu cầu đó.

Quy luật giá trị, cung – cầu và cạnh tranh yêu cầu người sản xuất hàng hóa phải năng động, nhạy bén và cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế Họ cần điều chỉnh hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa nhằm giảm chi phí sản xuất và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng Sự phát triển của nền kinh tế sản xuất không chỉ cải thiện đời sống vật chất mà còn làm phong phú thêm đời sống văn hóa, tinh thần của con người Do đó, sản xuất hàng hóa là nền tảng của mọi nền kinh tế.

1.2 Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:

Sản xuất hàng hóa là một bước ngoặt lịch sử quan trọng, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của xã hội loài người Quá trình này đã giúp con người thoát khỏi lạc hậu, tiến đến một xã hội văn minh hiện đại Nền kinh tế sản xuất hàng hóa không chỉ thay thế nền kinh tế tự nhiên mà còn thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.

Theo C Mác, sự ra đời của sản xuất hàng hóa phụ thuộc vào hai điều kiện chính: phân công lao động xã hội và sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất.

Phân công lao động xã hội là quá trình chia nhỏ lao động thành các ngành và lĩnh vực sản xuất khác nhau, dẫn đến sự chuyên môn hóa trong sản xuất Mỗi cá nhân chỉ sản xuất một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định, trong khi nhu cầu của họ lại đa dạng Để đáp ứng nhu cầu này, các nhà sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau, tạo ra mối quan hệ trao đổi giữa họ Sự phát triển của phân công lao động xã hội không chỉ mở rộng sản xuất mà còn làm đa dạng hóa các sản phẩm Do đó, phân công lao động xã hội là nền tảng cho sự hình thành sản xuất hàng hóa Phân công lao động được chia thành hai loại.

Phân công lao động cá biệt là quá trình chuyên môn hóa từng công đoạn trong sản xuất tại các công ty và xí nghiệp, ví dụ như trong sản xuất bàn, cần có người cưa, người bào, người đục Sản phẩm được tạo ra nhằm đáp ứng trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của người sản xuất, do đó được gọi là sản xuất tự cấp tự túc Vì không có tính trao đổi hoặc mua bán trên thị trường, sản phẩm này chưa được xem là hàng hóa.

Phân công lao động xã hội là quá trình chuyên môn hóa các ngành nghề nhằm tạo ra sản phẩm, như trong sản xuất xe máy Mỗi chi tiết như lốp xe, sườn, đèn, và điện được sản xuất bởi các công ty chuyên biệt, sau đó được lắp ráp thành chiếc xe hoàn chỉnh Sản phẩm không chỉ phục vụ nhu cầu của người sản xuất mà còn được trao đổi, mua bán và lưu thông đến người tiêu dùng trong xã hội, từ đó chúng trở thành hàng hóa.

Phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất đã góp phần tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm để trao đổi và tiêu dùng Khi phân công lao động xã hội phát triển, sản xuất và trao đổi hàng hóa trở nên mở rộng và đa dạng hơn.

Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa Theo C Mác:

Sự phân công lao động xã hội là yếu tố then chốt cho sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa Khi phân công lao động xã hội phát triển, sản xuất và trao đổi hàng hóa sẽ mở rộng và đa dạng hơn.

Để sản xuất và trao đổi hàng hóa diễn ra, chỉ có phân công lao động xã hội là chưa đủ Trong lịch sử, một số công xã cổ đại, như công xã thị tộc Ấn Độ, đã có sự phân công lao động chi tiết nhưng sản phẩm lao động vẫn chưa trở thành hàng hóa Điều này là do tư liệu sản xuất và sản phẩm từ các nhóm sản xuất chuyên môn hóa đều thuộc sở hữu chung và được sử dụng chung trong công xã, không thông qua trao đổi hay mua bán Do đó, để hàng hóa ra đời và tồn tại, cần có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất.

Nền kinh tế sản xuất hàng hóa

Kinh tế hàng hóa là hình thức phát triển cao hơn của nền sản xuất xã hội so với tự cung tự cấp, với sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch vụ thông qua mua bán trên thị trường Ban đầu, trao đổi hàng hóa diễn ra dưới hình thức hàng đổi hàng, nhưng khi tiền xuất hiện, nó trở thành phương tiện trao đổi chính Do đó, kinh tế hàng hóa cũng đồng thời là kinh tế tiền tệ Khi cơ chế trao đổi dựa trên giá cả thị trường, nó trở thành kinh tế thị trường, trong khi nếu dựa trên sắp xếp quy hoạch từ một trung tâm, nó sẽ là kinh tế kế hoạch.

Kinh tế hàng hóa là hình thức sản xuất xã hội tiến bộ hơn nền sản xuất tự cung tự cấp, trong đó sản phẩm được tạo ra để trao đổi qua mua bán trên thị trường Quan hệ kinh tế chủ yếu là hàng hóa – tiền tệ, đối lập với kinh tế tự nhiên, nơi các quan hệ vật chất chiếm ưu thế Theo chủ nghĩa C Mác, kinh tế hàng hóa là giai đoạn phát triển trong lịch sử xã hội, tiến từ kinh tế tự nhiên đến kinh tế sản phẩm Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chủ yếu vẫn mang hình thái hàng hóa Sự tồn tại của sản xuất hàng hóa phụ thuộc vào phân công lao động xã hội và sự tách biệt kinh tế giữa các nhà sản xuất Đặc trưng của kinh tế hàng hóa ở mọi chế độ xã hội là sự hiện diện của giá trị và thị trường, trong đó giá trị hàng hóa được đo bằng lượng lao động xã hội cần thiết và thể hiện qua giá cả Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ và nguyên tắc trao đổi hàng hóa theo ngang giá là những quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa.

SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ NIN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA TRONG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Lịch sử phát triển của nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

Nền kinh tế Việt Nam đã tiến hóa từ hình thức tự nhiên sang sản xuất hàng hóa giản đơn, và hiện nay đã chuyển mình thành nền kinh tế sản xuất hàng hóa hiện đại Qua từng giai đoạn lịch sử, nền sản xuất hàng hóa của đất nước đã không ngừng thay đổi và phát triển.

Trong thời kỳ phong kiến, nước ta gặp nhiều khó khăn do chính sách bế quan tỏa cảng, hạn chế giao thương với các quốc gia khác và cản trở việc tiếp thu nền văn minh và thành tựu khoa học – kỹ thuật Sự kìm hãm này dẫn đến năng suất lao động thấp và tư liệu sản xuất tập trung trong tay một số ít người thuộc tầng lớp trên Do đó, nền sản xuất hàng hóa ở nước ta chỉ mới bắt đầu xuất hiện và chưa phát triển.

Sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam bước vào giai đoạn bao cấp, dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong quản lý kinh tế Cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất hàng hóa, biến lương thành hiện vật và loại bỏ động lực sản xuất Hệ quả là sự cạnh tranh và lưu thông thị trường bị triệt tiêu, khiến nền kinh tế suy sụp và sức sản xuất hàng hóa giảm sút nghiêm trọng.

Sau Đại hội VI, Đảng và Nhà nước đã chuyển đổi nền kinh tế sang mô hình thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa Thành công của nền kinh tế này không chỉ thể hiện qua tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở việc nâng cao mức sống của mọi tầng lớp dân cư, phát triển y tế và giáo dục, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bảo tồn đạo đức và bản sắc văn hóa, cùng với việc bảo vệ môi trường.

Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa của Việt Nam hiện nay

Nước ta đã tiến thẳng từ chế độ nửa thuộc địa nửa phong kiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản Điều này dẫn đến nền sản xuất hàng hóa của Việt Nam có những đặc trưng riêng biệt, khác biệt so với các nước khác trên thế giới.

Nền kinh tế Việt Nam đang trải qua quá trình chuyển mình từ một nền kinh tế hàng hóa kém phát triển, chủ yếu dựa vào tự cung tự cấp, sang một nền kinh tế hàng hóa phát triển với nhiều cấp độ khác nhau.

Nền kinh tế hàng hoá dựa trên nền kinh tế nhiều thành phần đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế Tuy nhiên, sự hiểu sai và loại bỏ các thành phần kinh tế có thể dẫn đến sự suy giảm khả năng cạnh tranh Nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là nguồn lực tổng hợp giúp thoát khỏi suy thoái mà còn thúc đẩy sự phát triển của ngành dịch vụ, tạo ra nhiều cơ hội việc làm Cơ cấu công – nông nghiệp và dịch vụ đang dần hình thành theo định hướng chuyển dịch kinh tế mà Đại hội Đảng VIII đã đề ra, đảm bảo quyền tự do kinh doanh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mọi cá nhân và doanh nghiệp Hệ thống này khuyến khích các chủ thể kinh tế hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật.

Nước ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế “khép kín” sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu “mở” với các quốc gia khác trên thế giới Trước đây, tình trạng “bế quan tỏa cảng” đã khiến kinh tế nước ta rơi vào bế tắc và lạc hậu Sự phân bố không đồng đều về tài nguyên thiên nhiên và sức lao động giữa các quốc gia đã tạo ra nhu cầu khách quan để mở cửa nền kinh tế, nhằm đạt được hiệu quả cao và phát triển nhanh chóng.

Phát triển kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa được dẫn dắt bởi kinh tế Nhà nước và quản lý vĩ mô quốc gia Kinh tế Nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong các thành phần kinh tế, nắm giữ các ngành then chốt để bảo đảm sự phát triển của các thành phần khác theo định hướng này Tuy nhiên, để khẳng định vai trò của mình, kinh tế Nhà nước cần phát huy sức mạnh tổng hợp từ các thành phần kinh tế khác, chuyển đổi cơ chế quản lý sang năng suất, chất lượng, hiệu quả, đồng thời thích ứng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh để đạt được thành công.

Các đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh kết quả từ việc phân tích thực trạng và xu hướng phát triển nội tại của quá trình hình thành và tiến bộ của nền sản xuất hàng hóa trong tương lai.

Sự vận dụng lý luận của Kinh tế chính trị Mác – Lê nin về sản xuất hàng hóa trong nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay

3.1 Thị trường Việt Nam hiện nay:

Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến lần thứ XIII, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đã được hoàn thiện, giúp đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn và đạt tốc độ tăng trưởng cao, có lúc thuộc nhóm hàng đầu thế giới Từ một nước nghèo với thu nhập thấp, Việt Nam đã vươn lên thành quốc gia có thu nhập trung bình, đồng thời hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.

Giai đoạn 2016 – 2020 đánh dấu những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, với sự cải thiện rõ rệt về quy mô và chất lượng nền kinh tế Quan hệ quốc tế được mở rộng, góp phần củng cố và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.

Nền kinh tế Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể, với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân dưới 5% trong 7 năm liên tiếp (2014-2020) và cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, dự trữ ngoại hối tăng từ 28 tỷ USD năm 2015 lên hơn 90 tỷ USD vào năm 2020 Đặc biệt, trong năm 2020, Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng GDP 2,91%, nằm trong số ít quốc gia duy trì tăng trưởng trong bối cảnh khó khăn toàn cầu, với dự báo tăng trưởng từ 6% đến 11,2% trong năm 2021 Để phát triển kinh tế hàng hóa, cần chú trọng hình thành và mở rộng các loại thị trường đồng bộ, bao gồm thị trường tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, và thị trường vốn Đồng thời, cần phát triển giao lưu hàng hóa, chú trọng đến các vùng nông thôn và miền núi, xóa bỏ chia cắt thị trường theo ranh giới hành chính, và kết nối thị trường trong nước với thị trường quốc tế Kinh tế hàng hóa mà Đảng xây dựng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

Trong sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa Việt Nam, nhiều làng nghề thủ công truyền thống đã hình thành và phát triển, nổi bật là các làng nghề dệt lụa và gốm.

Sự phân công lao động trong nền kinh tế hàng hóa đã chứng minh hiệu quả rõ rệt qua chất lượng sản phẩm của các làng nghề, không chỉ chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn được ưa chuộng ở nước ngoài Tuy nhiên, nhiều làng nghề thủ công truyền thống đang dần mai một do sự phát triển kinh tế không đồng bộ và tác động từ bên ngoài Đảng và Nhà nước đang nỗ lực khôi phục và phát triển các làng nghề này, đồng thời cũng ghi nhận sự xuất hiện ngày càng nhiều nghề mới trong nước.

3.2 Lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay:

Việt Nam hiện là quốc gia có dân số đông thứ ba ở Đông Nam Á với lực lượng lao động trẻ và dồi dào Tuy nhiên, do xuất phát từ nền nông nghiệp, trình độ lao động còn thấp so với tiêu chuẩn toàn cầu Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII nhấn mạnh việc ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất song song với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa Điều này đánh dấu bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải phóng lực lượng sản xuất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Đảng xác định rằng để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, cần ưu tiên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.

Cơ sở khách quan cho sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là do sự đa dạng trong hình thức sở hữu tư liệu sản xuất Đại hội Đảng VIII đã khẳng định rằng các thành phần kinh tế tồn tại khách quan, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Hiện nay, các thành phần kinh tế bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản nhà nước.

3.3 Cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay:

Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mình từ trạng thái kém phát triển và tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường Đại hội Đảng VII đã nhấn mạnh sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế, phản ánh tính chất và trình độ sản xuất đa dạng Sự phong phú của nền kinh tế không chỉ đáp ứng nhu cầu mà còn cho thấy sự phức tạp trong quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa Do đó, việc phát triển kinh tế hàng hóa đa thành phần cần gắn liền với việc tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế xã hội.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được xây dựng dựa trên việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời đảm bảo vai trò quản lý và điều tiết của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nhà nước ngày càng nâng cao vai trò quản lý và giảm dần vai trò kinh tế, thực hiện quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch và chính sách Điều này nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm thị trường hoạt động theo quy luật kinh tế chính trị và tuân thủ thông lệ quốc tế Nhà nước cũng chú trọng xây dựng môi trường vĩ mô, phát triển cơ sở hạ tầng và an sinh xã hội, đồng thời ban hành cơ chế phân bổ nguồn lực nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Bên cạnh đó, Nhà nước duy trì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, hoàn thiện công cụ quản lý kinh tế vĩ mô và tăng cường kỷ luật trong thực hiện chính sách, sử dụng các chương trình đầu tư tín dụng để hỗ trợ sự phát triển của các ngành, địa phương và các thành phần kinh tế.

Các chính sách kinh tế của Nhà nước cần được thiết kế phù hợp với cơ chế thị trường, nhằm đảm bảo lợi ích và công bằng xã hội, đồng thời ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hợp lý Điều này cũng giúp ngăn ngừa tình trạng độc quyền và lạm dụng, tránh việc can thiệp vào thị trường một cách sai lệch, gây tổn hại đến lợi ích cộng đồng và hạn chế các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.

Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chưa từng có trong lịch sử, đòi hỏi sự sáng tạo và bản lĩnh cách mạng của Đảng Quá trình này cần dựa trên việc nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường cũng như các thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã và đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đạt được nhiều thành tựu kinh tế xã hội lớn Hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý kinh tế ngày càng được hoàn thiện theo hướng tiến bộ và phù hợp Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần mở rộng dân chủ trong xã hội Tình hình chính trị-xã hội ổn định, đồng thời quốc phòng và an ninh được giữ vững.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình chưa có tiền lệ, do đó, cần tiếp tục xem xét và hoàn thiện những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một mô hình đặc thù, phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa và giá trị xã hội chủ nghĩa của đất nước Tuy nhiên, cần xem xét khả năng áp dụng đầy đủ hơn các quy luật và giá trị chung của kinh tế thị trường để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững.

Thành tựu nền kinh tế sản xuất hàng hóa của Việt Nam

Chính sách và đường lối của Đảng và Nhà nước đã đưa Việt Nam phát triển thành một nền kinh tế quốc dân Từ một quốc gia tự cung tự cấp, Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, làm chậm quá trình phát triển kinh tế so với các nước khác Do đó, phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hóa là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước Kể từ năm 1986, khi bắt đầu xây dựng sản xuất hàng hóa, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể và đạt được nhiều thành tựu lớn.

4.1 Tốc độ tăng trưởng ở Việt Nam đối với các nước khác trong khu vực

Bài viết so sánh quy mô kinh tế dựa trên GDP-PPP giữa Việt Nam và các quốc gia, vùng lãnh thổ ở Đông Á và Đông Nam Á trong giai đoạn 1980-2014 Nghiên cứu này nhằm làm rõ sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh khu vực, đồng thời phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi GDP-PPP của các quốc gia này Kết quả cho thấy Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc nâng cao quy mô kinh tế, cạnh tranh với các nền kinh tế khác trong khu vực.

4.2 Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế hàng hóa của Việt Nam:

Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất ấn tượng, nhờ vào chính sách đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 Việt Nam đã nhanh chóng chuyển mình từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp Từ năm 2002 đến 2018, GDP đầu người đã tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD vào năm 2019, giúp hơn 45 triệu người thoát nghèo Tỷ lệ nghèo đã giảm mạnh từ hơn 70% xuống dưới 6%.

(3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá) Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số.

Trong năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ghi nhận tốc độ tăng trưởng 2,68%, cao hơn năm 2019, nhờ vào sản lượng cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi và tôm tăng khá Dù phải đối mặt với dịch bệnh, biến đổi khí hậu và thẻ vàng EC trong khai thác thủy sản, ngành nông nghiệp vẫn đạt mức tăng 2,55%, lâm nghiệp 2,82% và thủy sản 3,08% Đặc biệt, xuất khẩu nông sản tăng mạnh, với kim ngạch xuất khẩu gạo vượt 3 tỷ USD, tăng 9,3% so với năm trước, trong khi gỗ và sản phẩm gỗ đạt 12.323,3 tỷ USD, tăng 15,7% Ngược lại, xuất khẩu thủy sản chỉ đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,8% so với năm 2019.

Trong bối cảnh tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu vực công nghiệp và xây dựng ghi nhận mức tăng cao nhất với 3,98%, đóng góp 1,62 điểm phần trăm vào tổng mức tăng Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò chủ chốt với mức tăng 5,82%, đóng góp 1,25 điểm phần trăm Một số ngành sản xuất như thuốc, hóa dược, kim loại, và sản phẩm điện tử có tốc độ tăng trưởng ấn tượng, lần lượt đạt 27,1%, 14,4%, 11,4% và 11,3%, giúp ngành chế biến, chế tạo phục hồi trong bối cảnh khó khăn do dịch Covid-19 Trong khi đó, khu vực dịch vụ chứng kiến tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 1,2% trong 6 tháng đầu năm 2020, nhưng đã phục hồi với mức tăng 6,2% trong 6 tháng cuối năm, dẫn đến mức tăng 2,6% cho cả năm Các ngành dịch vụ như bán buôn và bán lẻ tăng 5,53%, tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, trong khi vận tải, kho bãi và dịch vụ lưu trú, ăn uống lần lượt giảm 1,88% và 14,68%.

Năm 2020, xuất khẩu của Việt Nam đã vượt qua khó khăn do dịch bệnh, đạt mức xuất siêu kỷ lục 19,1 tỷ USD và duy trì xuất siêu trong 5 năm liên tiếp Các Hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA), đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Xuất khẩu sang EU đạt 34,8 tỷ USD, trong đó sau 5 tháng thực thi EVFTA, kim ngạch xuất khẩu đạt 15,4 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước Điều này cho thấy năng lực sản xuất trong nước được cải thiện, môi trường đầu tư thuận lợi và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có nhiều thành tựu, bất chấp tình hình kinh tế khu vực EU suy giảm do dịch Covid-19.

Những hạn chế mà nền kinh tế sản xuất hàng hóa mang lại ở Việt Nam còn tồn tại ở hiện nay

.1 Sự phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa:

Trong nền sản xuất hàng hóa, mỗi cá nhân có điều kiện sản xuất, khả năng đổi mới công nghệ và nhạy bén với nhu cầu thị trường khác nhau, dẫn đến giá trị cá biệt của họ không giống nhau Tuy nhiên, quy luật giá trị vẫn áp dụng một cách công bằng cho tất cả, không có ngoại lệ nào.

Một số người có giá trị hàng hóa cá biệt thấp nhưng vẫn có lãi, từ đó họ có thể đầu tư vào tư liệu sản xuất, đổi mới kỹ thuật và mở rộng sản xuất Ngược lại, nhiều người sản xuất khác gặp khó khăn do điều kiện sản xuất không thuận lợi và năng lực quản lý kém, dẫn đến thua lỗ và phá sản Hiện tượng này góp phần vào sự phân hóa giàu – nghèo trong xã hội.

Hoạt động sản xuất hàng hóa luôn ảnh hưởng đến môi trường, và sự phát triển công nghiệp tại Việt Nam đã dẫn đến nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng Chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo, khiến nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa sản xuất và bảo vệ môi trường Một ví dụ điển hình là vụ Formosa Hà Tĩnh, thủ phạm gây ra thảm họa môi trường lớn nhất tại Việt Nam trong nhiều năm qua, dẫn đến ô nhiễm biển nghiêm trọng và cá chết hàng loạt ở bốn tỉnh miền Trung Theo điều tra của Chính phủ, vi phạm trong quá trình thi công và vận hành của công ty là nguyên nhân chính Formosa Hà Tĩnh đã nhận trách nhiệm và cam kết bồi thường 500 triệu USD, nhưng sự cố này đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành thủy sản, kinh doanh, dịch vụ, du lịch và đời sống của ngư dân.

Mối quan hệ giữa hoạt động doanh nghiệp và môi trường cần được làm rõ để thay đổi nhận thức và hành động của doanh nghiệp Hoạt động sản xuất không chỉ có tác động tích cực mà còn tiêu cực đến môi trường, trong khi môi trường cũng ảnh hưởng đến sự thuận lợi hay khó khăn trong sản xuất Mọi hoạt động kinh doanh đều có ảnh hưởng đến môi trường, và nếu yêu cầu không có tác động nào, thì sẽ không có hoạt động kinh tế nào diễn ra Cần chú trọng đến mức độ tác động của các hoạt động này.

- Nguy cơ gây hủy hoại.

- Khả năng hồi phục của môi trường.

- Sự ảnh hưởng bất lợi so với hiệu quả đem lại.

Các hoạt động của sản xuất hàng hóa đem lại hậu quả:

Hoạt động kinh doanh phát triển làm gia tăng nhu cầu khai thác tài nguyên thiên nhiên, bao gồm nguyên liệu và vật liệu cần thiết cho sản xuất Tuy nhiên, việc khai thác quá mức để đáp ứng nhu cầu này có thể gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường Hơn nữa, việc sử dụng các hệ thống công nghệ lỗi thời dẫn đến hiệu quả khai thác tài nguyên kém, làm trầm trọng thêm vấn đề này.

Hoạt động sản xuất và kinh doanh phát triển tạo ra nhiều yếu tố ảnh hưởng đến môi trường, đặc biệt là vấn đề chất thải Lượng chất thải công nghiệp này có khả năng gây suy thoái và ô nhiễm môi trường đất, nước, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người.

Hoạt động kinh doanh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế có thể gây ra các vấn đề về môi trường, đặc biệt là khi Việt Nam nhập khẩu những sản phẩm không thân thiện với môi trường, bao gồm cả chất thải độc hại.

Ngày đăng: 10/01/2022, 20:52

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w